Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014

NGHIỆP QUẢ – LỬA VẪN CHÁY VÀ SEN VẪN NỞ





NGHIỆP QUẢ
LỬA VẪN CHÁY VÀ SEN VẪN NỞ
Hoa Tâm cư sĩ
* * *
Đóa sen tâm đã nở. Nó đã nở rực, phát ra ánh sáng muôn màu sắc trong bối cảnh như thế, lửa đang rực cháy như  thiêu rụi mọi thứ xung quanh, trừ mỗi Sen. Nó vẫn kiêu hãnh nở rực, rồi phát sáng, ánh sáng của trí huệ của con đường tìm cầu giải thoát chân thật.
Ngay đó, ngay nơi lửa cháy đó là điều kiện để Sen kia muôn đời vô minh lại tìm về với chính bản thể của nó. Sức mạnh trong Sen đã khởi phát. Sen nở như Sen đùa giỡn, cười cợt thách thức với Lửa. Lửa càng cháy Sen càng phát sáng nở rộ hơn.
Thế đó! Lửa chỉ là điều kiện cho Sen nở. Đóa Sen Tâm thức mà vốn dĩ chúng ta ai cũng hằng có từ vô thủy, vô chung cho đến nay. Chúng ta đã quên lãng nó, tự chôn vùi nó trong màn đêm vô minh của sự sân si, tham đắm. Một khối bản ngã bao trùm lấy  làm cho ta ra sức bảo vệ cho những điều mà vốn dĩ chỉ là hư dối, không thực. Một sự bảo vệ cái bản ngã, chấp ngã, chấp pháp. Sự ma sát đó là điều kiện để lửa kia khởi phát rồi là điều kiện để Sen kia phải nở. Một chuỗi dài vòng vòng, lẫn quẫn nhưng cũng chỉ là sự đùa giỡn của sen với hư dối vạn sự vạn vật!!!
Sen đã làm thế nào để nở rực phát sáng như thế? Trước hết, vì Sen có niềm tin vào chính bản thân của mình, vì sen trong sáng tin tưởng vào sức  mạnh của Vũ trụ, đấng tạo hóa công bằng và từ bi.  Sen đã như thế còn bạn thì sao?
Trong cuộc sống, mỗi cá nhân chúng ta ai ai cũng có những khó khăn, nỗi niềm yêu thích, hờn ghét vì chúng ta còn mang bản ngã, cái tôi nặng. Chấp ngã, chấp pháp là có thật thể nên ra sức bảo vệ nó, bảo vệ thành quả, bảo vệ lý tưởng chính là bảo vệ cái tôi, bản ngã của mình. Để bảo vệ cho điều đó, chúng ta đã làm đủ điều, tạo ra vô số tội lỗi từ lời nói đến hành động làm tổn thương, tổn hại cho người khác mất đi sự công bằng vốn có của tạo hóa – Nghiệp quả.  Sự chấp ngã, chấp pháp, cái tôi càng ít thì sự tạo tác nghiệp quả kia càng ít lại.
Chúng ta tu là để hiểu rõ về bản thân mình để mỗi ngày chúng ta điều chỉnh và hoàn thiện mình hơn – tâm linh tiến hóa. Tu để nhìn thấy vạn vật, vạn pháp là hư dối, không thật để thoát ly, rời xa sự chấp ngã, chấp pháp là gốc của vô minh, phiền não, của tội lỗi kia. Vậy thì rất cần một sự quán soi trong chánh niệm cho mọi hành trạng tâm thức cũng như hành động, lời nói trong từng ngày, từng giờ cho mỗi cá nhân.
Thật khó phải không các bạn? Và cho chính tôi cũng thật khó. Nhưng khi lúc ta buông xuống chính là lúc ta được tất cả. Một sự huân tập buông bỏ, một thoái quen tốt.
Câu chuyện về Sen như thế này! Vốn dĩ Sen đã là Sen nhưng vì vô minh che lắp nên Sen hóa đá rất thô kệt. Sen trong đá! Đá lăn vào đời để rồi va chạm với đời, với người. Sự va chạm từ vi tế cho đến thô đã ma sát làm cho Lửa phát khởi. Lửa thiêu rụi tất cả những thành quả của Đá. Lửa thiêu sạch không còn lấy một thứ gì xung quanh đá. Lửa cháy càng dữ dội hơn. Như một sự chiến thắng của sự thiêu rụi thì vẫn phải tiếp tục chiến công bằng sự thiêu rụi. Lửa tiếp tục hân hoan với chiến thắng đó bằng việc tiếp tục thiêu cháy bản ngã của Đá để cho Đá không còn là Đá và cũng là để Lửa kia tiếp tục sự kiêu hành trong niềm vui chiến thắng của mình. Đá kia quằn quại, đau đớn trong sự thiêu đốt vì đang bị cháy dần, mất đi bản ngã, mất đi cái quyền được lựa chọn tốt, dỡ, đẹp, xấu. Lửa cháy mãi, càng cháy càng hăng. Đá kia biến dạng, tan chảy ra trong đau đớn. Và đến lớp cuối cùng của đá dành cho sự tan chảy kia thì đột nhiên có tiếng gọi lớn “A ha, Sen đã thoát xác!”.  Và rồi Sen đã nở, phát ra ánh sáng muôn màu rực rỡ! Một sự trở về chân thật từ Sen!
Sen đã ngoạn mục trở về với chính mình trong cái lớp áo ngoài là Đá. Và Lửa chính là ân nhân cho sự thoát xác đó. Nếu không có Lửa tức không có Sen, Sen mãi muôn đời là hòn đá thô kệt, xấu xí đầy tham lam, sân si, chấp ngã, đầy cái tôi, ngã mạn kia. Lửa chính là vị bồ tát đến để hóa độ, gội rửa cho Sen thoát xác, nhận ra mình để rồi phát sáng rực rỡ. Một sự cảm ơn, tri ân từ Sen cho Lửa!
Mỗi hành giả Mật tông, mỗi người đều là một Đóa sen kia. Hãy nở và hãy phát sáng trong mọi hoàn cảnh. Trong hoàn cảnh nào, cho dù tốt, cho dù là xấu thực tế cũng chỉ là một duyên, một bài học để chúng ta nhận lấy bài học, thoát xác và gội rửa tâm thức của mình. Trong mọi hành trạng, luôn nhớ nghĩ đến Thần chú để tu học, trì niệm mục tiêu đưa mình vào chánh định, an định, định tĩnh nơi đó sẽ có sự phát sáng trí huệ, tâm thức để có một hướng đi, mục tiêu đúng đích sẽ giúp cho ta vượt qua chướng ngại. Tạo dựng công đức bằng cách chia pháp cho người khác để tạo công bồi đức, có thêm phước báu để nhận được ân phước hầu cầu duyên lành giúp hành giả vượt qua chướng ngại, khó khăn để tĩnh tâm tu học.
Hãy mãi là sen! Hãy mãi tri ân với Lửa!
Hoa Tâm Cư Sĩ
* * *

http://www.daibi.vn/2012/09/nghiep-qua-lua-van-chay-va-sen-van-no/


CON ĐƯỜNG MANG TÊN KHÔNG LỘ & HÀNH TRANG NGŨ BỘ CHÚ





CON ĐƯỜNG MANG TÊN KHÔNG LỘ
& HÀNH TRANG NGŨ BỘ CHÚ
Hoa Tâm Cư Sĩ
* * *
Mỗi mỗi cá nhân đến tìm cầu con đường cứu cánh Phật pháp với mỗi tâm trạng thổn thức khác nhau, với một tập nghiệp, tập khí khác nhau. Nhưng hầu đều mong tìm đến sự an lạc, hạnh phúc.
Nhà Phật chia làm nhiều Tông nhưng có ba Tông chính là Thiền Tông, Tịnh độ Tông và Mật Tông. Nhưng thực tế, chỉ có hai Tông là Hiển và Mật.
Xưa kia có một đệ tử hỏi Đức Phật về giáo pháp của Ngài tuyên nói rộng bao nhiêu thì Đức Phật nắm lấy một nắm lá cây và trả lời: “Những gì ta nói chỉ như một nắm lá cây này. Và những gì ta chưa nói ví như một rừng lá cây kia”. Những gì Đức Phật tuyên nói xưa kia qua ba kỳ đại hội đã kết tập lại thành Kinh điển ngày nay (Hiển Giáo) và những điều Ngài chưa tuyên nói rộng lớn như rừng lá cây kia nằm trong bí mật tạng (Mật Giáo), những người hữu duyên sẽ được biết đến.
Mật Tông lấy huyền linh làm phương tiện để minh chứng cho sự hiện hữu của Trời Phật hầu giúp cho con người kính tin vào Trời Phật mà quay trở về với bản tâm thanh tịnh vốn có của mình, tìm thấy Viên Ngọc Kim Cang hằng có của mình.
Người tu Mật Tông sẽ có các Chư vị vô hình (Hàng Bồ tát, thiên tướng, thiên binh, Thánh, thần…) theo gia hộ bên mình. Hữu hình thì có các vị thầy hữu hình, người đi trước hướng dẫn để chia sẻ giúp đỡ mình trong kinh nghiệm tu tập tránh nhầm đường, lạc lối.
Người Đệ tử Mật Tông khi nhập môn trước hết phải thọ nhận phép quán đảnh hay còn gọi là buổi lễ quy y với Trời Phật do một người tu trước giúp cho mình.Buổi lễ đó là buổi lễ người hành giả được trao truyền tâm pháp, có tâm pháp đó thì có thể sẽ liên lạc được với Thánh Thần (Chư Bồ tát, thánh, thần, Trời, Phật…) qua sự chuyên tâm trì chú, tu học.
Thường thì những điều nhìn được bằng mắt thường đã là khó hiểu, khó biết huống chi là những điều không thể nhìn được bằng mắt thường. Cho nên, Mật tông xưa nay là Pháp môn bí truyền rất khó tìm cầu cũng như thâm nhập. Nhưng một điều may mắn cho con người thời nay Mật tông được phổ truyền một cách rộng rãi, dễ nhận, dễ tu đó cũng là hồng ân của Trời Phật dành cho con người Trần gian. Nhưng dễ như vậy lại cũng là cái khó vì căn cơ của người thế gian thấp kém. Chính vì thế, đa số con người ta nhận pháp, gặp pháp rồi dãi đãi, ỷ lại, ít biết quý hoặc rồi thì hời hợi trong sự tu hành. Hoặc khi đã thành tựu một chút ít nào đó, có chút kết quả tu tập thì bắt đầu sanh tâm ngã mạn, “Lấy đạo tạo đời”, tự thấy mình là cao pháp, cao đạo từ đó tạo nên vô số tội lỗi. Vì thế, rất khó tu lên, tu vượt để thoát qua bản ngã của mình. Đại đa số đều rớt ở giai đoạn có sự thành tựu trong pháp tu… Dù  cơ duyên Trời Phật sắp bày Mật Tông ở thời cơ này  là Phổ truyền nhưng cũng vẫn nằm trong Bí truyền là như vậy. Chỉ có những tấm lòng thành tâm cầu học thì sẽ được sự hướng dẫn, sắp xếp chỉ dạy củaChưvị Bồ tát vô hình. Sự tu trì đó không có sự phân biệt hèn, sang, đẹp, xấu… Duy mỗi chỉ thước đo là chơn  tâm của hành giả.
Hành giả tu Mật Tông, lấy giáo lý kinh Điển Hiển Giáo làm cột mốc, sự thành tựu về năng lực là món quà Trời Phật tặng ta để “Hiển Mật Viên Thông, tâm yếu Thành Phật Đạo”.
Lần lượt sau đây, tôi xin chia sẻ với quý đạo hữu về nhiều đề tài nho nhỏ trong vấn đề tu học, cũng là những thắc mắc của các bạn đạo hữu trong quá trình tu tập.
Khi viết nội dung này, cũng xin học theo hạnh của Chư Thầy, Tổ viết lại kinh nghiệm tu tập của mình nhằm chia sẻ hiểu biết nhỏ bé của mình cho các bạn đạo hữu duyên. Mong Chư Tổ, Thầy những vị huynh tỷ trưởng bối dung lượng. Vì chắc rằng sẽ có nhiều thiếu sót.
Những mục bài viết sau đây, mục tiêu viết để giúp ích cho sự tu tập của các bạn đạo hữu, hành giả sơ cơ khi mới bước vào tu tập Mật chú. Mong lấy ý, không câu nệ vào văn tự.
Thành kính tri ân đến ân sư, tôn sư đã gieo duyên, cho đệ tử cơ hội được làm đạo. Những năm tháng đã qua, đệ tử vẫn ghi khắc trong tâm. Chỉ hành động mà không lời nói. Cầu mong nếu những bài viết con chia sẻ dưới đây, nếu có xây dựng được công đức tu tập con nguyện là món quà dâng lên ân sư, Tôn sư và chư vị hộ pháp, chư vị độ đã bao năm khó nhọc chăm sóc cho linh hồn của đệ tử. Con Thành tâm sám hối!!!
1. CÔNG PHU TRÌ CHÚ
Mỗi hành giả Mật tông, khi được thọ nhận Tâm pháp sẽ được nhận Thần chú về để chuyên tâm trì niệm, tu học.
Ở đây, Hoa Tâm phổ hóa chuyên về “Ngũ Bộ Chú”. Nhưng trong quá trình tu học sẽ có một số Thần chú trao truyền thêm hầu giúp cho sự tu học thêm phong phú và có nhiều kinh nghiệm thêm về một số Thần chú.
Khi các bạn nhận Phép quán đảnh qui y với Trời Phật sẽ được minh chứng, thị hiện bằng những hiện tượng lạ như tiếp một lực lạ làm cho chuyển động tay chân, cơ thể hoặc làm chao đảo, lắc lư hay có một luồng khí nóng, lạnh chạy quanh cơ thể, hoặc tay, chân hoặc nữa sẽ nhìn thấy ánh sang đủ các loại màu sắc, nghe những âm thanh lạ… tất cả những hiện tượng lạ không do hoàn cảnh xung quanh hoặc không dohành giả tạo ra thì gọi là “Ấn chứng” (Hoặc do người điểm đạo nhìn thấy một hiện tượng bằng linh ảnh về một sự kiện nào đó khi nói ra hoàn toàn chính xác dành cho người thọ pháp hoặc thấy chư vị Thánh Thần, bồ tát về làm phép quán đảnh cho người thọ pháp thì cũng là Ấn chứng).
Ấn chứng là sự thị hiện, minh chứng, chứng minh của thánh thần, chư bồ tát cho con người hiểu, biết có sự chứng của Trời Phật cho buổi lễ nhận Tâm pháp đó. Cũng như thị hiện cho con người thấy có sự hiện diện của bề trên, trời phật để giúp cho con người kính tin vào Trời Phật, an tâm tu hành, tu tâm dưỡng tánh, làm lành tránh dữ.
Khi Buổi lễ nhận quán đảnh có ấn chứng, người hành giả sẽ có các chư vị thánh thần, bồ tát vô hình theo gia hộ, giúp đỡ, tạo cơ duyên để tu tập, sửa mình và thọ nhận Mật chú, mật phù về giúp cho việc tu tập tiến bộ. Người hành giả khi nhận Mật chú về phải chuyên tâm gia trì, trì càng nhiều càng tốt.
Tại sao phải chuyên tâm trì chú?
Thần chú Chuẩn Đề là Tâm chú của Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề, sinh ra vô lượng, vô biên chư Phật, chư Bồ tát… Khi Thần chú Chuẩn Đề được tuyên nói, chư Thiên long bát bộ, hộ pháp, chư Bố tát, thánh thần… vân tập đến nghe, thấy sự lợi ích và năng lực của Thần Chú đều phát lời đại nguyện rằng: “Sau này, có ThiệnNamtín nữ nào thường tụng niệm Thần chú khi nghe âm thanh của Thần chú liền đến để hộ trì Phật pháp”. Cho nên, người hay thọ trì Thần chú sẽ có cácChưhộ pháp thường đến để gia hộ, giúp đỡ, tạo duyên cho hành giả tu học tinh tấn.
Vì sự tu hành không phải một ngày, một giờ, một sớm, một chiều mà nó sẽ xuyên suốt cả một đời và cả vô lượng kiếp nữa cứ mãi như thế. Sự chuyên tâm trì chú cũng là một sự chứng minh cho ý chí tu học, kiên tâm, kiên định nắng mưa không sờn, chứng minh cho tấm lòng cầu học, tu hành của người hành giả khi đã kính tin vào Giáo pháp. Ngay đó sẽ được Chư vị vô hình cảm, chứng và sẽ giúp đỡ, dạy dỗ cũng như ” tạo duyên lành” để hành giả thọ nhận bí pháp về tu học cũng như là tạo duyên khai mở trí huệ bát nhã để quán soi nhìn lại mình mà sửa đổi, tu tâm dưỡng tánh, có đời sống an lạc, hạnh phúc.
Thường xuyên trì niệm giúp cho hành giả an định. An định được sẽ tĩnh tâm, quán soi nhìn thấy gốc của các duyên sinh khởi, nhìn thấy tướng của vạn sự, vạn vật mà hành, cũng như thực hiện các hạnh tu học. Trí huệ bát nhã từ đây mà nẩy mầm. (Về sự quán soi chân thật để nhìn thực tướng của các pháp, vạn sự, vạn vật hành giả nên lấy Bát nhã Tâm kinh làm sách gối đầu nằm, là cẩm nang để mà sống, sống với bát nhã, hành với bát nhã…)
Sư trì niệm, tu học Thần chú cũng sẽ khác nhau theo từng cấp độ tu học của mỗi hành giả theo thời gian. Mỗi một bước luôn có sự hướng dẫn củaChưvị vô hình cũng như hữu hình, tùy nhân duyên hành giả sẽ được thọ nhận thêm tuần tự các Thần chú khác như “Uế tích Kim cang” để hổ trợ trong bước đường tu học. Nhưng cơ bản vẫn là chuyên tâm trì niệm Thần chú Chuẩn đề.
2. ẤN CHỨNG VÀ NĂNG LỰC – LÒNG TỪ BI CỦA CHƯ VỊ HỘ PHÁP
Hành giả tu Mật tông lần lượt trong bước đường tu học sẽ được trải nghiệm về ấn chứng cũng như sẽ được thực nghiệm về năng lực theo từng cấp độ tu học của mình.
Có người khi vừa mới nhận quán đảnh qui y với Trời Phật thì đã có rất nhiều ấn chứng hay một số năng lực nhất định như thấy có Thần nhãn, có Thần nhĩ v.v.v…thấy một số linh ảnh có phần chuẩn xác, nghe một số điều chư vị mật khải có phần chuẩn xác, có một ít năng lực làm một số việc như trị bệnh, xem bói… Phần đông, đa số hành giả khi được chứng nghiệm những ấn chứng hay năng lực đó đều rất phấn khởi, đôi khi quá đà mãi mê tìm cầu năng lực mà quên đi việc tu học chính yếu là gì.
Ấn chứng là một phần quà mà chư vị vô hình dành cho người hành giả khi mới bước chân vào tu tập. Trong quá trình tu tập, sẽ có rất nhiều ấn chứng. Vì Hành giả tu Mật tông sẽ có song song hai hệ thống vô hình và hữu hình theo sát để hướng dẫn (Hệ thống vô hình là những chư vị hộ pháp theo gia hộ cho hành giả theo từng nhân duyên của hành giả trong bước đường tu học. Ở mỗi cấp độ, giai đoạn mà hành giả đó lần lượt sẽ có thêm từng hệ đoàn theo gia hộ khác nhau. Hữu hình là những người hành giả đi trước hướng dẫn phương pháp tu học cũng như giúp đỡ về pháp cho những người tu học tạm gọi là những vị Thầy, Tổ hoặc huynh, tỷ đi trước) cho nên ấn chứng trong quá trình tu tập cũng là mật mã chuyển tải một thông điệp và cũng nói lên sự tu học của mỗi hành giả mà muốn giải đáp cần phải có nhiều kinh nghiệm tu học, chứng nghiệm và thực trải mới có đầy đủ khả năng để giái đáp và lý giải nó. Cho nên, hành giả mới tu tập khi nhận được ấn chứng không nên vội tin hoặc không nên bát bỏ mà hãy ghi chép cẩn thận để làm hành trang tu học của mình. Và đợi đến khi nó xảy ra hiện hữu thì hành giả sẽ có thêm bài học cho mình. Nên thường xuyên trao đổi với người hướng dẫn của mình để được giúp đỡ, hướng dẫn trong quá trình tu tập.
Có những vị có những ấn chứng rất tốt, thấy rất chuẩn xác nhưng không có nghĩa là bao giờ cái thấy đó cũng hoàn toàn trúng. Không bao giờ là tuyệt đối cho nên hành giả không nên quá tin vào những điều mình thấy, chấp vào đó rồi sanh ra ngã mạn cho mình là hay thì sẽ là bước cản rất lớn làm chậm lại quá trình tu tập của hành giả.
Có những vị tu mãi nhưng vẫn không có được ấn chứng gì mấy thì cũng chớ vội chán nản, hãy cứ tiếp tục trì niệm, tu tập vì trước hay sau gì cũng sẽ được chứng nghiệm. Hãy tu học bằng tấm lòng cầu học chân thật vô vụ lợi thì sẽ được chư vị chứng minh, giúp đỡ, nâng đỡ cho hành giả. Nếu như các bạn thấy mình đã trì niệm rất nhiều mà vẫn chưa được ấn chứng thì các bạn nên nhớ rằng sự nhiều đó chỉ là nhiều đối với bản thân mình nhưng thực tế vẫn chưa nhiều, chưa mãnh liệt. Hãy lấy tiêu chuẩn của chư vị Thánh thần, bố tát làm gốc đừng lấy tiêu chuẩn của mình mà cho là nhiều là đạt. Phải cố gắng khi chưa có kết quả, chớ vội nản chí mà cho rằng mình không có đủ duyên. Vì nếu không có đủ duyên thì làm sao nhận được quán đảnh, mật chú để mà tu học?
Tu học cũng là một sự nối kết của nhiều kiếp đời, chủng tử đó không bao giớ mất. Cho nên, có nhiều người học nhanh, đi nhanh, nhận nhanh là cũng do quá trình tu tập của hành giả đó ở nhiều tiền kiếp trước. Cho nên, trong sự tu tập hành giả không nên nhìn trái, nhìn phải, mà chỉ nhìn ngay ở chính bản than của mình theo sat sự hướng dẫn để tu học tình tấn. Hằng ngày, lấy hạnh khiêm tốn, nhẫn nhịn, chịu đựng và lấy tấm lòng chân thật cầu học đạo ra để mà đi, từng giờ nhớ nghĩ quán soi lại mình để thấy được “Tâm mình ở đâu trong vô vàn cái vọng” để mà tự điều chỉnh mình, thấy được mình, thấy được nghiệp quả của mình để mà sửa đồi. Người hành giả tu Mật Chú tất cả quá trình trên sẽ được tha lực của chư vị hộ pháp giúp đỡ để tạo duyên lành cho hành giả tu tập trên con đường trở về với bản tâm thanh tịnh vốn có của mình.
Tất cả những ấn chứng, thị hiện đó là sự trợ lực của chư vị hộ pháp nhằm mục tiêu dạy dỗ, giúp hành giả tinh tấn trong bước đường tu học Mật chú. Và rồi để hành giả phải tự lực giác ngộ, nhờ tha lực để tự lực.
Một người có Thần nhãn, nhĩ… là phương tiện tốt để nhận những bài học của chư vị vô hình muốn dạy dỗ cho mình. Hoặc khi làm Phật sự, pháp sự dụng những phương tiện đó để minh chứng, trợ duyên cho người nhận pháp biết sự mầu nhiệm của Phật Pháp mà kính tin qua những linh ảnh, thông tin chuẩn xác, thiết thực.
Một đoạn đường rất dài và gian nan, hằng chư vị độ, chư vị hộ pháp đã không mệt mỏi nương theo hành nguyện và hộ dẫn cho người hành giả tiến tu. Có những vị độ đã gia hộ cho người hành giả, đệ tử đó không những ở một kiếp này mà đã từ rất nhiều kiếp.Chưvị độ đã rất kiên nhẫn, bằng tình thương yêu chân thật với chúng sanh, bằng lòng từ bi vô hạn đã kiên nhẫn chờ đợi, thị hiện và tạo mọi duyên lành để cho hành giả tinh tấn tu học.
Rất ít người trong số chúng ta biết và có lòng tri ân. Trước hết, nói đến công đức củaChưvị hộ pháp, chư vị độ. Để hằng nhắc cho chúng ta có lòng tri ân với Chư Vị độ, chư vị hộ pháp mỗi hành giả chúng ta trước và sau thời khóa hành trì hằng ngày hãy dành thời gian đảnh lễ, nói lời tri ân cảm kích đối với chư vị hộ pháp, chư vị độ để tiếp tục được nhận nhiều đặc ân hơn.
Và một sự tri ân nữa không thể thiếu cho mỗi hành giả vì có được thân người để kiếp này nhận Mật chú tu học là cha, là mẹ đã sinh ra ta. Hãy lập hạnh tri ân, cảm ơn đã có được than này bằng cách mỗi ngày hồi hướng một thời gian công đức trì niệm tu tập của mình cho đấng sinh thành. Từng mỗi kiếp người một nếu làm được như thế tức thì trọn vẹn với “Hiếu hạnh” – một trong những hạnh lớn của người tu.
Một sự tri ân quan trọng là đối với hữu hình tạm gọi là Tổ, Thầy, huynh, tỷ đã từ bi hướng dẫn, trao truyền pháp tu cho mình, người đã dày công dạy dỗ, uốn nắn tâm tính và nhắc nhở chăm sóc cho sự tu tập của mình.
Tất cả sự tri ân đó, mỗi hành giả hãy tự để nó trong thâm tâm của mình và thể hiện lớn lao nhất không phải bằng lời nói đầu môi chót lưỡi mà bằng ngay trên chính sự tu tập của mình bằng sự quý pháp và trao pháp lại cho người khác tu tập để mang lại nhiều lợi ích cho chúng sanh. Nói đến đây, con thành tâm sám hối vì chính bản thân con cũng đã rất nhiều thời gian, năm tháng không có đủ lòng tri ân với Chư vị, cha mẹ, Thầy – Tổ, huynh, tỷ đủ đầy.
Trở lại với đề tài ấn chứng và năng lực, nó có rất nhiều khía cạnh. Ở khuôn khổ bài viết này, Tami chia sẻ với các đạo hữu một cách khát quát sao cho đọc dễ thấy, dễ nhận. Ấn chứng là tha lực và năng lực là sự tự lực. Nhờ tha lực để có tự lực.
Sau một thời gian tu tập, trì niệm có ấn chứng thị hiện hành giả tu tập lập công bồi đức, tạo dựng công đức tu tập. Ngay đây, mỗi hành giả đều sẽ được người hướng dẫn hổ trợ, chia sẻ các pháp bí mật, mật phù, mật chú để trợ duyên trên bước đường tu tập. Nhờ vào công đức tu hành, lập công bồi đức kết hợp với việc xuyên năng luyện tập mật phù, mật chú trên hành giả sẽ có một số năng lực nhất định tùy theo nhân duyên, phước báu và tấm lòng của mỗi hành giả thì năng lực cũng sẽ khác nhau. Vì trong quá trình tu luyện các mật phù, mật chú, chư vị hộ pháp theo lời đại nguyện sẽ về gia hộ thần lực thường xuyên cho hành giả đó. Hành giả thường xuyên nhận những linh lực đó, cộng hưởng sẽ nhận được ít nhiều linh lực đó và sẽ kết tập thành năng lực cho mình. Linh lực càng lớn đòi hỏi thân tâm của hành giả đó phải phù hợp với linh lực đó tức là các hệ đoàn chư vị vô hình càng cao về dạy thì đòi hỏi hành giả theo tiêu chuẩn tương ứng về tâm tính, tấm lòng cũng như công đức tu hành cùng hạnh nguyện- Đạo hạnh. Ngay đây, cũng sẽ nói lên phẩm vị, “Thần vị” của mỗi hành giả. Khi có năng lực mỗi hành giả tùy theo khả năng và nhân duyên mỗi người có thể thực hiện một số vấn đề như trị bệnh, gọi vong, nhìn thấy việc quá khứ, tương lai… Ngay đây, hành giả phải nên cẩn trọng và không nên lạm dụng quá nhiều vào năng lực đó nếu có. Vì sao? Vì khả năng, năng lực của hành giả là có hạn và phải tu hành, lập công đức rất nhiều thời gian như vậy mới có, mới hình thành. Cho nên, năng lực đó chỉ có thể lạm dụng vào những việc mang lại lợi ích cho Phật Pháp, vào những việc Pháp sự, Phật sự để làm lợi ích cho chúng sanh và hộ trì Phật Pháp. Cần phải biết mình ở đâu? Và đang làm gì? Tránh vì tham danh, lợi, vì người khen ta hay, cả nể, cho ta được lợi mà dấn thân vào thì có khi chuốc họa vào thân. Năng lực của con người là có giới hạn, năng lực của chư vị hộ pháp là vô hạn. Vì sao? Vì có vô số chư vị hộ pháp là hàng hộ pháp, thiên long bát bộ, chư tiên, chư thánh, chư Thần,… vì lời đại nguyện theo gia hộ Phật pháp. Hãy là người hành giả dễ thương, biết phận, hiểu phận để luôn nhận được sự ủng hộ hẳng đến của Chư Vị hộ pháp trong việc Pháp sự, phật sự thì mới có thể làm được việc lớn mang lại nhiều lợi ích cho chúng sanh trên bước đường tu tập.
Năng lực thật sự cũng chính là sự an lạc trong thân tâm, nói pháp có người nghe, chia pháp có người nhận và thực hành có kết quả, mang lại lợi ích cho chúng sanh. Đó là năng lực của trí bát nhã, của lòng từ bi thể hiện qua công cuộc làm đạo, trao pháp, hướng dẫn giúp người tìm chỉ ra con đường cứu cánh giải thoát cho mỗi cá nhân. Năng lực đó là con đường quay về với bản tâm thanh tịnh của mình. Con đường quay về càng gần năng lực càng lớn.
Hoa Tâm Cư Sĩ
* * *
http://www.daibi.vn/2012/09/con-duong-mang-ten-khong-lo-hanh-trang-ngu-bo-chu/

NHỮNG PHÉP LẠ TẠI BÃI BIỂN QUY NHƠN





NHỮNG PHÉP LẠ TẠI BÃI BIỂN QUY NHƠN
Tami
* * *
Lần thứ I:
Tami xin kể cho các bạn nghe về chuyện phép lạ xảy ra tại bãi biển Qui Nhơn cách đây khoảng 3 tháng. Đó là một buổi tối, khoảng hơn 10h đêm, tôi đang chuẩn bị đi ngủ, thì nhận được điện thoại của Vi, một nhân viên trong tiệm tu Mật tông, do Tami điểm đạo, và đã được mở Thần nhãn – bảo ở dưới biển người ta đang vớt xác của một đứa bé chết trôi, và Vi đã thấy bằng con mắt thứ ba linh hồn đứa bé, là một thằng bé cỡ 9, 10 tuổi ở trần, mặc quần cụt. Xưa nay, Tami không thích đi xem những việc của thiên hạ nhưng hôm nay lại nhận lời và đi xem với một suy nghĩ biết đâu chừng mình có thể giúp tìm xác đứa bé này.
Khi tôi xuống đến nơi là khoảng 10h15 phút, khoảng 15 phút sau, tôi thấy hình ảnh một đứa bé mặc quần sọt màu xanh và áo sơ mi màu trắng, mình nhễ nhãi nước đứng cúi mặt trước mặt tôi. Tôi nói với cậu bé nếu muốn tôi giúp thì hãy khiến bố mẹ đến tìm thì sẽ giúp cho.
Tôi nhìn khắp chung quanh nhưng không thấy bố mẹ của em bé nầy, chỉ thấy có ông ngoại thất thơ thất thỉu ngồi trước bàn thờ và tiếng than khóc của cô chú đứa bé rất thảm thương.
Đứa bé bị chết trôi lúc 5h chiều, do ông ngoại dẫn đi tắm biển và bị sóng cuốn đi. Em được 12 tuổi, sinh ra tại Gia lai và xuống Qui nhơn – Quê ngoại – để tham gia khoá học hè. Hôm đó biển động mạnh, có sóng to và gió lớn. Gia đình và nhiều người đã lùng sục và lặn hụp và dùng lưới để cào quét khắp khu vực xung quanh tìm kiếm xác, nhưng cào lên chỉ toàn là rác. Gia đình tìm nhiều thầy pháp và những người chuyên môn giúp đoán phương hướng để tìm xác, ai chỉ gì cũng làm theo, nhưng tất cả đều vô vọng.
Tại bờ biển lúc này rất đông người, hằng trăm con người hiếu kỳ đứng xem và cho nhiều ý kiến khác nhau nhưng đại đa số họ nói rằng xác của bé trai này đã trôi dạt đi xa rồi, không còn ở đây nữa vì sóng lớn… tìm chỉ hoài công vô ích.
Tôi nhìn trong đám đông tìm thấy một người quen đang hoà nhập vào dòng người thân của em bé. Tôi liền hỏi xem có phải là người thân của gia đình đó không? Họ nói là có biết nên tôi nói cho người đó việc tôi đã nhìn thấy đứa bé, và diễn tả hình dáng của nó cho người đó nghe. Sau đó, thì tôi rời bờ biển và đi vòng vòng chơi chỗ khác.
Khoảng 11h 20′ pm, tôi trở về nhà thì được biết Bố mẹ của đứa bé đi tìm tôi và xin sự giúp đỡ (vì họ nghe người quen tôi gặp ở bãi biển kể lại, là tôi đã thấy và diễn tả đứa bé chính xác). Tôi nhận lời và cùng họ trở lại bờ biển.
Khi tôi xuống đến nơi là khoảng 11h 30′ pm. Giữa dòng người đông đúc và hiếu kỳ họ nhìn tôi với nhiều ý kiến khác nhau nào là: “Thầy cúng hiện đại”… nào là “Thầy pháp này có khuôn mặt sáng ghê”, vì tôi không mặc áo tràng, không cầm một cây nhang và cũng không có đến chỗ bàn thờ. Có đứa bé chạy đến đưa cho tôi son đỏ, kêu tôi thoa lên má. Tôi tức cười nói là chị không phải bà đồng, không cần cái này đâu.
Tôi đến ngồi xuống gần sát bờ biển và chắp tay lên trán, khấn với các Thánh Thần: “Con thành tâm kính xin các Chư vị thần linh trấn giữ khu vực biển này, nếu đứa bé có duyên được giúp đỡ xin Chư vị thần linh hướng dẫn con cách đưa xác của đứa bé lên bờ”. Khoảng hai phút sau, tôi thấy bằng mắt thứ ba hai vị vô hình mặc quần áo giáp thuỷ cung, hai vị hai bên xách tay một đứa bé trai kéo lên bờ và đứng trước mặt tôi. Chư vị hướng dẫn tôi gọi bố của đứa bé ra bàn thờ và đứng đó để thành tâm khấn xin cho đứa con, và dặn người nhà dùng đèn pha rọi sáng mặt biển để chuẩn bị đón xác của đứa bé. Tôi nói lại cho người bố nghe những lời dặn của chư vị thần linh và ông nghe lời làm theo.
Sau đó tôi nói với mọi người xung quanh ai có tấm lòng thì hãy ngồi xuống chắp tay lên đọc theo tôi 3 tiếng danh hiệu của Quán Thế Âm, và cứ niệm như vậy liên tục. Khoảng 30 người ngồi xuống để làm theo, trong đó có người thân của em bé và những người khác muốn phụ cầu xin tìm được xác đứa bé. Năm phút trôi qua, tôi kêu họ ngưng cầu nguyện để cho tôi biết ấn chứng, vì thấy hầu hết họ đều có nhận gia trì thần lực. Khi người thứ 5 đang kể về ấn chứng của mình thì bỗng có tiếng hô lớn: “Xác lên rồi! xác đứa nhỏ lên rồi! Mọi người ùa chạy tới để xem, tiếng người xôn xao ‘linh thiêng, linh thiêng quá’ lẫn với tiếng khóc nổi lên ầm ĩ.
Ông ngoại của em kể đã chính mắt nhìn thầy xác của em lăn vào bờ như người ta lăn một cái vỏ chai, và nằm ngay dưới chân của ông ngoại của em. Ông cho đó là một phép lạ. Có hai người thanh niên đến đưa xác của em lên trong tư thế giống hệt như linh ảnh tôi nhìn thấy ban đầu khi em được hai Vị Thần linh Thủy cung dẫn em lên. Em giống y hệt như tôi và bé Vi đã thấy. Người ta đều nhận xét xác của em nguyên vẹn và nhìn rất tươi.
Đám đông hiếu kỳ lúc này không phải đi xem xác chết trôi nữa mà họ vây xung quanh tôi với hàng trăm câu hỏi và trầm trồ thán phục, xem tôi như tiên, như thánh không bằng. Có người nói: sao giống như trong chuyện Phong Thần quá! Những người có kinh nghiệm về chết trôi thì nói đây đúng là một chuyện kỳ lạ, linh hiển quá sức, rất rõ ràng chứ không có mơ hồ, và thật là bất ngờ, chuyện xưa nay họ chưa hề thấy vì xác chết thường là trôi dạt đi xa, nhanh nhất cũng 1 ngày 1 đêm xác mới nổi lên, và ở một nơi xa, có khi bị cá ăn không toàn vẹn, và cũng chưa hề thấy có xác chết nào biết lăn cù cù vào bờ ngay cái chỗ bị nước cuốn đi, trong ánh sáng của những cái đèn pha dọi ngay vào đúng chỗ đó. Phần Tami thì rất là cảm động và vui mừng vì đã được làm một công cụ trong phép lạ hiển hiện này.
Cả gia đình nội, ngoại của em sau đó đều đến xin điểm đạo, và đều được Thánh thần thị hiện cho nhiều sự linh hiển khác.
* * *
Lần thứ II:
Vào trưa ngày 06 tháng 04 năm 2009, Tami đang đi công việc ở ngoài thì nhận được điện thoại của anh Hưng (Bố của Cháu Thịnh – Trong bài viết Phép lạ tại Bãi Biển Qui Nhơn) nhờ Tami giúp để tìm lại xác chết trôi của một người tên Nguyễn Tiến Dũng, 45 tuổi – Lê Hồng Phong – Tp. Qui Nhơn.
Tami có chút ngần ngại vì không biết có phải duyên để làm việc này hay không. Trở về đến nhà Tami gặp thân nhân của gia đình đó, và nghe chị Trang, chị của Tami kể là khi gia đình của ông Dũng đến tìm thì chị Trang có thấy linh ảnh của một người đàn ông trắng, mập và thấp người, mặc áo sơ mi trắng và quần tây màu xanh, chân mang đôi giầy màu nâu. Người đó bước đến trước mặt chị Trang và chị nghe bên tai chư vị Thủy thần nói là phải dâng cúng một dĩa trái cây ngũ quả và một bình rượu trắng”.
Khi hỏi lại gia đình thì được xác nhận hình tướng và trang phục lúc ông Dũng mặc khi chết giống như linh ảnh mà chị Trang đã thấy. Tami nghĩ đây là dấu hiệu của siêu hình đã hé mở cho cho biết phương pháp nên Tami nhận lời giúp gia đình họ tìm xác.
Tami đi cùng với chị Trang, chị Chín và gia đình của ông Dũng đến nơi ông Dũng bị trôi mất xác. Tami nghe kể lại ông Dũng cùng bạn đi câu cá vào sáng ngày 05 tháng 4 năm 2009, khi đang ngồi trên tảng đá trên ghềnh thì bị sóng đánh rớt xuống nước, vì không biết bơi nên ông đã bị sóng nhận chìm mặc dù vài người bạn đều cố gắng cứu ông ta bằng nhiều cách.
Nơi ông Dũng chết là một vùng của Sông Cầu cách Qui Nhơn vài ba chục cây số. Khi đến làng chài đó, đi ngang qua một ngôi đền thờ Chư Thần Nam Hải, Tami nhìn thấy trong ngôi đền có rất nhiều thanh niên tụ họp lại chơi bài bạc và bằng mắt thứ ba Tami thấy nhiều chư thần cũng ngồi thành một nhóm chơi bài. Tami nghĩ thầm các vị bên cõi bên kia cũng ảnh hưởng tập khí của người trần gian.
Sau đó, có một vị thần từ trong đền bước ra chào Tami và nói: “Ở vùng biển này có rất nhiều người chết trôi”. Tami nói các vị chơi bài vui quá, và cám ơn vị. Vị cười và chào Tami lần nữa. Tami và chị Trang, chị Chín cùng một số người bà con trong gia đình đi băng qua nhiều đồi dương dưới buổi trưa trời oai bức để đến bãi biển. Bãi biển rất đẹp rất tự nhiên, nước xanh và trong veo, có thể nhìn thấy đáy. Nơi ông Dũng ngã té xuống nước chỉ sâu khoảng 3m, ấy thế mà mấy chục người thợ lặn trong vùng cùng với 8 người thợ lặn từ Thành phố Nha Trang đến để tìm kiếm cả hai ngày trời nhưng vẫn không tìm thấy.
Tami chọn một vị trí trên bãi biển để đặt đàn pháp cầu nguyện: 12 cây đèn cầy, rượu, hoa sắc màu đỏ và ngũ quả trái cây đặt trên đất và Tami và người thân quì xuống cầu nguyện.
Tami cũng nhân đó mà làm lễ điểm đạo cho người nhà của ông Dũng. Trong lúc họ niệm danh hiệu “Quán Thế Âm” thì Tami xin với các Chư vị Long, thủy thần xin giúp cho Tami thành tựu để trợ duyên cho đạo. Tami cùng người nhà quì gối phơi nắng để tỏ thành tâm, ngoảnh lại đằng sau nhìn lại gia đình của người chết thì thấy người đội nón, khoác áo, kẻ đeo mắt kính vì họ sợ nắng biển. Bố của ông Dũng thì đeo kính mát nằm thoải mái ở một gốc cây, nghe nói ông là Việt kiều từ Mỹ về. Không hiểu sao người bố này không có chút quan tâm đến chuyện tìm xác của con mình?
Tami được biết ông Dũng chết để lại vợ và hai đứa con gái, người vợ đã ngất xỉu khi nghe tin dữ và đau khổ không ra khỏi nhà, còn hai cô con gái thì rất đau buồn. Mọi việc chỉ còn nhờ vào gia đình của bố và anh chị em ruột nhưng họ đều tỏ ra hời hợt trong việc cầu nguyện để xin một phép lạ.
Tami khấn với Chư vị xong thì thấy linh ảnh chư vị Thủy Thần mở một song sắt và thả ông Dũng ra. Tami mang vật cúng lễ ra, đọc thần chú và thả hết xuống biển, và bước dọc theo bờ biển, miệng vẫn tiếp tục đọc Ngũ Bộ Chú.
Buổi lễ diễn ra trong vòng 15 phút, lúc đó vào khoảng 1h 30’, Tami kêu mọi người đứng dậy và vào chỗ mát ngồi, chờ đến 3 giờ chiều thì xác sẽ nổi lên (do chư vị nói cho Tami biết như vậy). Tami nói với gia đình: Tami đã đệ đơn xin với chư thần biển và Quan Thế Âm để giúp cho gia đình rồi đó, giờ đây thì gia đình cần tiếp tục trì niệm Quan Thế Âm, thể hiện lòng thành khẩn của mình mới được. Nhưng khi họ vào chỗ ngồi thì Tami không thấy ai trì niệm gì cả (!).
Đã gần đến 3 giờ chiều, người dân đổ ra biển càng lúc càng đông và nhiều người vây quanh Tami, bàn tán đủ chuyện. Một số anh chị em trong nhà tỏ vẻ không tin và nói: “Cầu thì cầu vậy thôi chứ làm sao mà tìm cho được vì biết bao nhiêu người thợ lặn tìm kiếm mà không có”.
Đã 3 giờ chiều nhưng vẫn không có dấu hiệu gì của cái xác, người nhà bắt đầu nóng ruột. Tami khấn với chư vị xin giúp cho pháp được linh ứng và đi xuống bãi biển để thực hiện một pháp khác. Tami cầm 1 bó nhang, quỳ xuống bãi cát khấn các Chư vị và gọi linh hồn của Nguyễn Tiến Dũng về thọ nhận lễ điểm đạo, thì liền thấy linh hồn người này từ ngoài khơi đi vào, người ướt sũng nước. Tami khuyên linh hồn nhận lễ điểm đạo và sám hối để xin với chư vị cho xác mình nổi lên, để cho gia đình vợ con bớt khổ. Một vị sư áo vàng có khoác áo choàng màu đỏ xuất hiện và rưới nước làm lễ quán đảnh cho ông Dũng. Tami trao Ngũ bộ chú và sau đó thấy ông Dũng đi trở ra khơi quì đảnh lễ một vị nữ thần dung mạo rất đẹp, mặc trang phục bằng vàng lấp lánh, và trang phục như các thần nữ Ấn Độ. Vị nầy nhận ông Dũng làm đệ tử. Vào lúc này thì chị Trang đang ngồi ở một tảng đá xa phía bên kia thấy linh ảnh có nhiều vị Tiên cá đang vũ múa giữa biển.
Tami gọi hai cô con gái của ông Dũng và kể cho họ nghe những gì Tami thấy, và cũng nói cho họ biết linh hồn ông Dũng được điểm đạo và đã được siêu thoát, đi theo chư vị thần linh để tu hành ở cõi bên kia. Cái xác rồi sẽ được trả về cho gia đình, và kêu họ hãy an tâm chờ đợi. Hai cô con gái khóc vì cảm động và đều nói lời cảm ơn.
Sau đó thì Tami lên trên đồi dương ngồi chờ. Khoảng 20 phút sau thì xác ông Dũng nổi lên (ngay chỗ mà chị Trang đã có chỉ nhưng người ta nói chỗ đó người ta đã tìm rồi và không có gì hết) và được những người chèo thúng nhìn thấy. Xác được vớt đưa lên bờ. Khi đó, tiếng tung hô vang dậy và người ta bao quanh Tami để khen hay, người thì gọi cô, người gọi thầy để xin địa chỉ. Tami cũng vui, và xin dân làng thêm 1 chai rượu để làm lễ tạ ơn Chư vị Thủy thần và ra về sau đó. Trên đường về lại có linh ảnh của những vị thủy thần vui vẻ mở tiệc rượu uống với nhau.
* * *
Lần thứ III:
Ông Nguyễn Hỷ, 51 tuổi, ngụ tại Chợ Đầm, phường Đống Đa, Tp. Qui Nhơn. Vào sáng ngày 8 tháng 5 năm 2009, ông đi tắm biển tại khu vực cầu đen, Tp. Qui Nhơn và bị chết trôi mất xác.
Gia đình ông tìm đến tôi với sự mong mỏi được giúp để tìm xác ông. Tôi nói rõ tôi không phải là những người lên đồng nhập xác để làm việc tìm kiếm xác chết. Nhưng nhờ thọ nhận phép Phật và thọ trì Thần chú mà có những năng lực. Nếu muốn tôi giúp cho thì gia đình phải có lời nguyện là sau khi tìm được xác phải biết thờ phượng Trời Phật và tu hành nghiêm minh.
Tôi tiến hành làm lễ điểm đạo cho những người đến nhờ tôi tìm xác là em gái ruột và người anh họ của ông Hỷ. Lúc đó, tôi thấy nơi ông Hỷ chết nhìn thẳng ra phía ngoài Biển là một ngôi đền.
Tôi hỏi người em gái xem thử có phải như thế không. Họ trả lời không biết và cũng không rành vị trí nơi đó. Trong bụng tôi thầm nghĩ: “Cũng có điều nghịch lý vì ông Hỷ chết trôi ngoài biển thì từ nơi ông Hỷ chết nhìn thẳng ra cũng là biển thì làm gì có cái đền thờ nào nằm ở giữa biển”. Nhưng khi tôi đi xuống đến nơi ông Hỷ chết thì nhìn thẳng ra hướng biển xa xa tôi nhìn thấy một ngôi đền nổi lên giữa biển. Thật ngạc nhiên và lý thú vô cùng vì điều này trước khi đến tôi đã được Chư vị cho biết và nhìn thấy trong linh ảnh nhưng nó lại là hiện thực.
Tôi chỉ cho gia đình họ ngôi đền đó và họ hết sức ngạc nhiên. Sau đó, tôi cho họ mua sắm trái cây và hoa quả và mang ra ngôi đền đó để cúng tế. Chúng tôi di chuyển từ bờ ra ngôi đền đó bằng ghe thuyền. Ngôi đền này được xây trên một dãi đá nhỏ nhô lên giữa biển. Người dân địa phương nơi này lập đền thờ một Vị tướng quân lâm trận và chết ở nơi này, và Thần Nữ Long Cung, Quan Âm Bồ Tát để thờ cúng. Nghe họ nói lại nơi này rất linh thiêng.
Trước khi ra ngôi đền, tôi làm lễ điểm đạo cho mười mấy người thân trong gia đình. Tôi cho họ quỳ ở bàn thờ của người chết đặt trong bờ hướng ra biển. Họ niệm liên tục danh hiệu của Quan Thế Âm.
Từ ngôi đền đó nhìn thẳng ra các bạn sẽ thấy cây cầu Hà Thanh bắt ngang biển có chiều dài nổi tiếng khắp cả nước. Tôi thường đến cây cầu này để nhìn ngắm ra biển về hướng của ngôi đền đó nhưng lạ thay chưa bao giờ tôi nhìn thấy nó. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó chỉ trong linh ảnh mà lại là hiện thực. Thật sự tuy chỉ là những linh ảnh nhưng nó rất hiện thực chỉ có điều là con người ta không hiểu ý nghĩa của những linh ảnh đó hoặc là chỉ muốn hiểu theo ý của mình.
Có một điều mà cho đến ngày hôm nay tôi mới được biết khi nhìn thấy trong ngôi đền đó thờ vị Thần Nữ Long Cung. Khi tìm xác của ông Nguyễn Tiến Dũng, 45 tuổi trong bài trước tôi có viết là ông Dũng được Vị Thần nữ trên biển dẫn đi. Thì ra Vị chủ quản của Long Cung là một vị Nữ Thần. Từ nhỏ cho đến lớn tôi cứ nghĩ Chủ quản của Long cung phải là các Vị Long Vương như trong phim ảnh chứ!
Khi chiếc ghe chở chúng tôi đến ngôi đền trên biển đó, đi theo tôi còn có chị Trang và hai người bạn đạo khác, chị Trang nhìn thấy linh ảnh có một vị tiểu đồng có đôi cánh trên vai cầm cây kích bay ra đón chúng tôi vào đền. Còn tôi nhìn thấy linh ảnh có rất nhiều chư vị Long Thần lướt trên sóng đến chào chúng tôi và xin cho nhận linh phù để tu học.
Khi làm lễ cầu nguyện tôi khấn tên tuổi của mình là đệ tử của Thầy Thích từ Huệ, Hôm nay, nếu có nhân duyên nhận lại xác của ông Nguyễn Hỷ và mục tiêu là để truyền bá đạo pháp, gây uy tín đạo chứ không phải vì mục đích cá nhân, xin chư vị Thủy thần, Long thần soi xét.
Trước đây, sư huynh Hùng có chia sẻ cho tôi một pháp là vẽ một chữ Lam vào một tờ giấy ghi tên người chết để trong miệng đọc Thần chú chuẩn đề sẽ tìm được xác. Tôi thực hành làm theo.
Chúng tôi ngậm một hồi lâu trong miệng, khi rời khỏi ngôi đền đó, chúng tôi nhả những miếng giấy đó ra khỏi miệng và thả xuống biển. Hôm đó, biển động có sóng và gió. Có một điều lạ là khi chúng tôi vừa thả miếng giấy đó xuống biển thì khoảng vài phút sau sóng gió nổi lên dữ tợn hơn. Những ngọn sóng hình lưỡi búa ngoai lên hụp xuống liên tục. Tôi nhìn thấy rất nhiều Long Thần, Thủy Thần xuất hiện. Họ rất vui mừng và lướt sóng chạy theo chúng tôi. Họ cho biết khi những câu Thần chú thả xuống biển như vậy làm động rất nhiều. Họ gọi lớn tiếng tên của tôi và kéo theo sau một chữ tàu màu đen (Sau khi trở về, hỏi lại những người biết về chữ tàu thì tôi mới biết chữ đó có nghĩa là “ngày mai”). Chư vị hướng dẫn tôi cho ghe chạy một vòng làm một vòng phép để giữ xác lại từ ngôi đền đó cho đến khu vực cửa biển Trần Hưng Đạo. Và sau đó tôi mới biết, nơi ông Hỷ chết là giao điểm của cửa sông Hà Thanh và biển. Nơi đó có một dòng chảy ra biển khơi và cửa biển là nơi có tượng của Đức Thánh Trần Hưng Đạo.
Có rất nhiều người chết ở nơi này đa số xác chết đó sẽ theo dòng chảy ra biển khơi và tìm thấy xác ở những nơi rất xa sau mười ngày hay hai mươi ngày.
Trước khi giúp họ tìm xác tôi nói với họ rất rõ tìm được xác hay không còn phải do duyên nghiệp của người chết. Nhưng nếu gia đình có lòng thành tâm cầu nguyện với Thánh thần thì sẽ nhận được kết quả tốt hơn là khi không có sự cầu xin. Và tôi là người gửi đơn lên với các Chư vị Thánh Thần giúp họ.
Chư vị hướng dẫn tôi làm vòng phép để giữ cái xác đó. Tôi làm theo lời hướng dẫn của Chư vị và được cho biết là trong khoảng thời gian 5 đến 6h chiều Chư vị sẽ trả xác lại. Kinh nghiệm vài lần cho tôi biết được rất ít con người xứng đáng để nhận được ân phước của bề trên vì không đủ tấm lòng tri ân và thành kính. Nên tôi nói với gia đình họ trong khoảng 5 đến 6h chiều hãy dùng ghe tìm lại khu vực quanh đây, tôi chỉ cho họ một số khu vực, nếu như không có thì có lẽ sẽ bị dịch chuyển về giờ giấc. Và nếu đến nút thời gian đó không thấy xác lên thì chắc chắn một điều là xác vẫn còn nằm trong khu vực này, không bị trôi đi đâu cả. Xác sẽ nằm theo hướng bàn thờ thẳng ra.
Chúng tôi trở vào bờ và rời khỏi nơi đó. Khi trở về nhà, tôi sực nhớ mình chưa làm lễ điểm đạo cho vong linh của ông Nguyễn Hỷ. Tôi ngủ một giấc và nghĩ trong bụng sáng ra sẽ làm lễ điểm đạo cho ông Hỷ để nhẹ nhàng và dễ cho việc tìm xác của ông.
Đến khoảng 8h sáng hôm đó, tôi đang loay hoay thì thấy linh ảnh Chư vị Thủy Thần về và nói với Tôi: “ Tami, Tami biết không khi một người bị nhấn chìm dưới nước thì họ sẽ trở thành một Thần dân của Thủy cung. Tami điểm đạo cho họ tức là lấy đi một thần dân của Thủy cung”. Tôi giật mình à thì ra không phải ai cũng có thể điểm đạo cho họ được. Họ có những nghiệp lực của họ. Muốn giúp họ tu hành cũng không phải là chuyện dễ. Tôi nói với Chư Vị Thủy Thần: “Dạ rõ, Tami sẽ không làm lễ điểm đạo cho ông Nguyễn Hỷ nữa. Cảm ơn Chư Vị đã nhắc nhở. Tami chỉ muốn gây uy tín cho đạo để truyền bá đạo pháp thôi ngoài ra không có ý khác”. Chư vị thủy cung cười và nói khoảng 12h trưa nay xác sẽ được cho lên. Chư vị Thủy Thần chỉ cho tôi xem linh hồn của ông Nguyễn Hỷ bây giờ là Thần dân của Thủy Cung. Tôi thấy linh ảnh ông Nguyễn Hỷ mặc quần áo giáp lính thủy cung, trên tay cầm một cây kích.
Và chuyện xảy ra đúng như lời báo trước của Chư vị. Người nhà của ông Hỷ đã báo cho tôi biết xác ông Hỷ đã tìm được vào buổi trưa vào lúc 11:30 hôm đó, và vị trí cũng đúng như lời Chư vị nói là nằm ngay khu vực từ phía đặt bàn thờ nhìn thẳng ra. Thật lý thú, sóng to gió lớn như vậy, dòng nước chảy xiếc mà xác ông Hỷ vẫn còn nằm ở khu vực đó mà không bị dịch chuyển đi nơi khác.
Có một điều lạ là cách đây nhiều năm, tôi nằm thấy một giấc mơ, giấc mơ đó lập đi lập lại rất nhiều lần. Tôi thấy có một chiếc ghe chở nhiều người trong đó có tôi đi ra biển khơi và đi quanh một dãi đá nổi lên giữa biển. Trên dãi đá đó có đền thờ của một Vị Thần Nữ. Tôi nghe tiếng nói gọi tên tôi và nói: “Con hãy bước vào và lễ lạy Vị Thần Nữ đó đi và hãy cúi xuống chân mình và nhặt những viên đá. Đó là những viên ngọc”. Ngôi đền giữa biển mà tôi nhìn thấy trong giấc mơ không khác gì với ngôi đền mà tôi vừa đến. Hôm đó, tôi cũng vô tình nhặt về nơi đó một viên đá khi nghe chư vị hướng dẫn và khi về đến nhà tôi mới nhớ lại câu chuyện từ trong giấc mơ năm nào. Tôi nhìn lại viên đá đó thấy nó có hình của một con cá. Thật là lạ lùng… có phải chăng là sự trở về?
* * *
Lần thứ IV:
Cơn bão vừa qua thực sự đã tàn phá rất nhiều cho Miền Trung nói chung và người dân ngoài rìa Thành phố Qui Nhơn nói riêng. Những lời cảnh báo về lũ lụt thật sự đã diễn ra. Những người già ở địa phương nói rằng họ đã chứng kiến cảnh lũ lụt lớn mà 50 năm qua họ chưa bao giờ nhìn thấy.
Cách trung tâm thành phố khoảng hai, ba cây số, nước dâng cao ngập cả mái nhà, bao nhiêu là dân nghèo bị ngập trong biển nước. Những người lái buôn đồng lặn, đồng mọt vay mượn tiền mua hàng hoá về kinh doanh mua bán thì chỉ trong một đêm đã bị nước cuốn trôi… tình cảnh thật khổ sở!!!
Hai ngày sau cơn bão, tôi hiếu kỳ dạo quanh khu vực bị lũ lụt một vòng. Lúc này, nước lũ cũng vừa mới rút xong. Cơ sở vật chất nơi này bị tàn phá không ít. Con đường nhựa biến thành dãy cồn cát, một đoạn đường sắt trở thành cây cầu treo lơ lửng, bên lề đường có vài đám tang – nạn nhân của bão lụt.
Hai giờ chiều ngày hôm sau xảy ra cơn bão, có hai phụ nữ đến tìm tôi, nhờ tôi tìm xác của một người bị chết trong cơn bão vừa qua. Chị của tôi gặp họ và báo tin cho tôi, chị kể với tôi: ” Hai phút trước khi hai phụ nữ này đến, chị có thấy hình ảnh một thanh niên trạc 26 tuổi, dáng người ốm, gương mặt xương xương, nước da ngâm đen, mặt một cái quần sọt cởi trần, người đó đứng bên kia đường nhìn vào tiệm của mình”.
Tôi liền hỏi lại một chị và được chị ấy xác nhận đó là em trai của chồng chị, mọi chi tiết về người em đều được tả đúng.
Tôi thấy đó là dấu hiệu Chư vị đã mở đường cho tôi biết là họ có cơ duyên. Nhưng để cẩn thận hơn, tôi điện hỏi ý của sư huynh Thanh Hùng. Sư huynh kêu hãy nói với họ ngày mai đến khu vực Trại Phong Quy Hoà – Tp. Qui Nhơn vì xác chết sẽ nằm ở đó.
Người thanh niên đã mất đó tên là H.K.Thôi, 26 tuổi, cư trú tại Chợ Cháo, nằm trên đường Nguyễn Huệ, Tp. Qui Nhơn. Khoảng 6h sáng hôm xảy ra cơn bão, Thôi cùng 5, 6 người hàng xóm khác mỗi người một cái thúng chèo ra biển để kéo lưới giăng bắt lại cá để vớt vát lại tài sản. Biển nổi sóng dữ dội, toán người chèo thúng đều vào bờ an toàn chỉ mình Thôi sót lại, và bị nước cuốn ra, ai cũng nhìn thấy Thôi cố chèo chống vì chỉ còn cách bờ rất gần nhưng không ai dám ra giúp vì sóng lúc ấy rất lớn. Có người già ở nơi này nói rằng: Tôi đã sống nơi cùng với biển cả từ nhỏ cho đến lớn và đã từng chứng kiến rất nhiều trận bão nhưng chưa từng thấy những con sóng kỳ lạ và dữ dằn như vậy”.
Tôi đến nhà gia đình họ và căn dặn họ chuẩn bị vật lễ để tế các chư vị Thủy thần gồm: Một bình rượu, hoa đỏ, nến và một đĩa trái cây, muối gạo. Tôi nói cho họ nghe về sư huynh Thanh Hùng, và lời chỉ dẫn của sư huynh là ngày may xác của Thôi sẽ được tìm thấy ở bãi biển Quy Hòa. Họ nói là họ đã tìm hết nơi đó vào sáng nay rồi mà không có. Tôi kêu họ ngày mai rồi hãy tìm, vì hôm nay tìm sẽ không có, và tôi dặn họ hãy cho những người ở khu vực đó số điện thoại để khi gặp được xác họ sẽ có cách để liên lạc với gia đình.
Sau đó tôi gom hết những người trong gia đình của Thôi lại, tất cả là 12 người anh em, dâu, rể, quỳ trước bàn thờ để họ thọ nhận lễ điểm đạo. Tôi hướng dẫn cho lạy 3 lạy đảnh lễ thập phương chư Phật, Đức thầy Thích từ Huệ. Năm phút sau mỗi người đều nhận được những ấn chứng khác nhau. Người chị dâu nói: “Chị đã nhìn thấy nó – Thôi về đây với một nhóm người nữa rất đông. Hiện nó đang đứng ở nhà dưới.” rồi chị ấy nói chị cảm thấy rất lạnh, đến run lập cập và kêu lạnh quá. Chị tỏ ra sợ hãi, nói: “Chị không muốn bị nhập xác đâu, nó muốn vào xác của chị rồi em ơi. Giúp chị với chị rất sợ và chị rất yếu chị sẽ chịu không nổi”. Tôi khuyên chị cứ để tự nhiên xem người em có lời gì với gia đình hay không? nhưng chị vẫn nói chị sợ lắm, và tiếp tục run lên cầm cập, than là lạnh quá và khóc lóc. Tôi thấy vậy và như ngầm hiểu có đôi tay của Chư vị thêm vào chút gia vị để cho màn trình diễn thêm phần hấp dẫn. Tôi nhờ người nhà rót dùm tôi một ly nước lạnh, và tôi quán chữ Lam vào đó, miệng niệm Chuẩn đề chú, để có một chút hình thức chứ mọi chuyện đều do Chư vị sắp đặt. Tôi đưa cho chị ấy uống ly nước đó, uống xong hiện tượng run đã giảm và chị tỉnh táo lại hơn, nhưng chỉ 2 phút sau thì chị lại run lên, khóc dữ dội hơn và than lạnh. Tôi liền nói với chị, hay đúng hơn là nói với linh hồn đang nhập vào chị: “Thôi, không cần phải nhập xác làm gì. Trở ra đi đợi tôi chút xíu tôi sẽ đi ra biển để làm lễ giúp cho, đừng nôn nóng”… Chị ấy vẫn tiếp tục run, tiếp tục khóc, tôi lại nói: nếu không chịu ra tôi sẽ dùng Pháp à nha! vì nói nhẹ không nghe thì tôi làm mạnh tay à! Miệng tôi nói cứng vậy thôi chứ đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc hiện tượng nhập xác như thế này.
Thật sự không có chút kinh nghiệm này tí nào! Tôi điện thoại nhờ Sư huynh Thanh Hùng lần nữa thì sư huynh chỉ bắt ấn Kim Cang để trên đầu, trì chú Chuẩn Đề và dậm chân xuống đất thật mạnh, làm như vậy nhiều lần sẽ hết. Tôi làm theo và tôi dậm chân xuống đất mạnh đến nổi những người ngồi xung quanh đều bị giật mình và người chị dâu đang bị xác nhập cũng bị giật mình… làm tôi phải ráng nín cười vì xung quanh hàng xóm hiếu kỳ đến xem rất đông. Tôi gọi cho sư huynh cho biết tôi làm không có kết quả và nhờ sư huynh giải quyết dùm. Sư huynh nhận lời và hỏi họ tên, và tuổi của người chị dâu để sư huynh trì chú cầu nguyện. Gia đình cho thông tin của người chị dâu xong và hai phút sau khi cúp máy, bên kia sư huynh cầu nguyện thì bên này người chị dâu được trả lại bình thường và xin thêm ly nước có quán chữ Lam nữa.
Tôi vẽ một chữ Lam ra giấy vàng bằng chữ đỏ và nhờ người trong gia đình vẽ lại cho tôi thật nhiều chữ lam như thế để cho tôi làm lễ cúng các Chư Thuỷ Thần… tôi làm thêm cho có hình thức chứ thật sự có thể làm việc đó bằng sự quán tưởng trong siêu hình để trao cho những linh hồn lạnh lẽo, đang cần sự giúp đỡ.
Khi tôi đặt đàn để làm lễ tế có rất đông người xem. Tôi đặt rượu, trái cây, hoa và nến, muối, gạo vào một cái mâm đặt trên bãi cát. Thắp một bó nhang trên tay, tôi quì xuống khấn vái và lễ lạy Mười phương thế giới phật, sư Thầy, Cv Thuỷ Thần, Long Thần, Đức Thiên Hậu – Chủ quản biển cả xin cơ hội được Chư vị trưng dụng thực hiện phép lạ để làm lợi lạc cho Đạo Pháp. Tôi thấy trong linh ảnh có bốn vị Thuỷ Thần đứng trên một tấm bè màu trắng, trên đó có chở một cái xác đang tiến vào bờ.
Mặt biển vẫn đen nghịt, sóng và gió vẫn lớn và mạnh, những món vật lễ được sóng cuốn hết ra biển làm cho tôi cảm thấy vững tin nên tôi khẳng định với gia đình chắc chắn sẽ tìm được xác: Vào ngày mai, hãy đi bãi biển Quy Hòa, và từ giờ trở đi gia đình phải liên tục trì Ngũ bộ chú, cầu xin Chư vị giúp đỡ.
Người chị dâu cũng đi theo tôi ra biển. Trong khi tôi đang lặn hụp dưới cát và nước để tế lễ thì chị đứng trên bờ và nói với mọi người rằng chị cũng có tu hành theo Sư phụ và Thờ “Mẫu Mẹ”. Sư phụ của chị dạy hãy dùng ghe chạy ra cửa biển Cù Lao Xanh để múc một thùng nước từ nơi đó về để bà làm phép, sau đó mang thùng nước đó trở lại nơi đó đồ xuống biển thì sẽ tìm được xác.
Những người nghe chị nói vậy có người đã có ý kiến: “Không biết sư phụ chị là ai mà kỳ vậy? một người chết chưa đủ hay sao mà muốn có thêm vài người chết và còn mất thêm tài sản. Biển cả đang sóng to, gió lớn thế này kêu người ta chạy ghe ra khơi như thế khác nào đi vào chỗ chết?”
Trong lòng tôi nghĩ thật sự tu hành và làm đạo không phải là chuyện dễ nếu như không có trí huệ và không có phương pháp đúng đường thì chẳng khác nào làm trò cười và đề tài đàm tiếu cho thiên hạ.
Thật kỳ diệu! 6h sáng ngày hôm sau, xác của Thôi được tìm thấy nằm trên dãy cát trên bãi biển Quy Hoà như một sự trả về của biển cả. (Đây là lần thứ 4, Tami tìm được xác người chết đuối qua sự thần khải và giúp đỡ của Thánh Thần).
Tami
* * *
http://www.daibi.vn/2012/09/nhung-phep-la-tai-bai-bien-quy-nhon/

LAM TỰ – TẬP KHÍ THANH TỊNH BA ĐỜI CỦA CHƯ PHẬT





LAM TỰ
TẬP KHÍ THANH TỊNH BA ĐỜI CỦA CHƯ PHẬT
Hoa Tâm Cư Sĩ
* * *
Trong pháp tu về Mật chú, dù ít dù nhiều các bạn cũng sẽ một lần nghe, thấy về Lam tự. Trong bài viết này tôi chia sẻ với các bạn theo sự tu chứng của mình về Thần chú Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn “Úm Lam” cũng như phép quán Lam tự.
Trong một lần cố gắng hành trì miên mật, tôi niệm “Úm Ma Ni Pap Mê Hum. Úm Chiết Lệ, Chủ Lệ, Chuẩn Đề, Ta Bà Ha. Bộ Lâm”, một ý niệm khác trong tâm tôi thay vì là những tạp niệm nổi lên tôi quán những tạp niệm đó là Thần chú “Úm Lam, Úm Xỉ Lâm” cứ như thế vang lên. Đó là cách tôi hành trì Ngũ bộ. Vừa rút ngắn thời gian để số niệm tăng nhiều hơn, vừa là một phương pháp đồng hóa những tạp niệm kia bằng Thần chú, giúp cho tâm an lạc, thanh tịnh. Phương pháp này mới đầu thực hành thấy rất khó khăn, nhiều bạn đạo bỏ cuộc nhưng nếu chúng ta cố gắng sẽ làm được. Vì ngay cả bản thân tôi khi mới thời gian đầu thực hiện cũng thấy rất khó nhưng cố gắng nên đã thực hiện pháp tu này được. Rất mong các bạn đạo khi đọc được bài viết này cố gắng thực hiện, chịu khó thực hiện vì nó rất có lợi ích cho sự tu phát triển. Vì khi phương pháp này nó giúp “Định Tâm” rất nhanh mà khi Tâm định tức phát sinh “Trí Huệ”, rồi từ đó sẽ có “Giới”, tự giữ “Giới”. Con đường đi đến “Giới, định, tuệ” từ đây rất nhanh thành tựu, đạt thành.
Trong lần hành trì đó, khi tôi niệm liên tục miên mật như vậy. Bắt đầu tôi thấy thân hữu hình của mình như không còn nữa – cảm giác lúc này như mất thân hữu hình này, một thân vô hình khác hiện lên rất rõ ràng đang ngồi trong khoảng không gian tu tập. Tôi quán chữ Lam trước trán của mình, chữ Lam phát sáng ánh sáng vàng rực tỏa sáng. Một linh ảnh hiện ra và bên tai tôi ngheChưvị hướng dẫn mình cách vẽ chữ “Lam”, nét vẽ vuông vứt của chữ Lam ở hai nét đầu tiên kẻ ngang và dọc xuống tạo thành vuông vứt. Bên tai tôi nghe chư vị nói: “Con vẽ chữ Lam vuông vứt như thế này sẽ làm cho Chữ Lam nhìn mạnh mẽ hơn”. Từ đó, tôi luôn theo nét vẽ chữ Lam này mà vẽ.
Một lần khác, trong một buổi hành trì, cũng phép quán chữ Lam trước trán, thân tâm lúc đó rất thanh tịnh, an lạc, một cảm giác rất sảng khoái. Tôi lại thấy mình đi vào một khoảng không gian rộng lớn. Nơi đó, tôi nhìn thấy một vị sư rất lớn. Thân của vị sư đó rất to lớn, và điều đặc biệt là có một màu da màu Lam. Vị cởi trần và chỉ mặc một chiếc quần vải màu Lam. Vị ngồi trong tư thế kiết già. Tay phải vị đó kiết một cái ấn, chiếc ấn đó tất cả các ngón chụm lại duy mỗi ngón trỏ là giơ thẳng lên. Trên đỉnh ngón trỏ đó là một chữ Lam vuông vứt màu vàng  sáng chói. Từ chữ Lam đó phát ra vô số chữ Lam khác. Và từ mỗi chữ Lam đó như vậy lại phát ra vô số chữ Lam khác nữa. Cứ như thế, Chữ Lam đó chu biến khắp mọi nơi trong không gian vũ trụ bao la. Vị sư đó ngồi tay kiết ấn như vậy và mọi ý niệm luôn là Thần chú “Úm Lam” thanh tịnh. Vị Sư đó là ai? Là một Chư vị vô hình như bao chư vị vô hình khác đang thị hiện bằng linh ảnh cho tôi được thấy? Thật là một điều ngạc nhiên vì chưa thấy một Chư vị nào có màu da Lam như vậy, tôi nghĩ như thế. Và một câu trả lời trong vô thức đó là “Giáo chủ” hay vị Chủ Quản  của “Lam” tự. Nhờ vào sự hành trì miên mật, quán những tạp niệm thay nó bằng âm thanh của chơn ngôn giúp cho tôi chóng được sự Định tâm, thanh tịnh. Nhờ vào sức thanh tịnh, định tâm đó tôi đã được nhân duyên nhìn thấy Vị giáo chủ bí mật kia. Thật hạnh phúc!!!
Từ đó, tôi biết được mỗi chữ Phạn tự, hay một ký hiệu của một linh phù nào đó, theo tập khí hình thành đều có một Chư vị Bồ tát ở đó đang ngồi trong tư thế miên mật tu trì. Cho nên, một khi hành giả quán tưởng đến ký tự đó, tức thì trở về với Tâm quá khứ thành tựu của Chư Vị Bồ tát, cổ phật đó. Mà trong đó, nó lại có hằng hà, sa số tâm quá khứ của chư Cổ Phật, chư Bồ tát và cũng có tâm quá khứ, hoặc tâm hiện tại của nhiều chủng tử đang tu tập và quán tưởng ký tự đó quy về… Cho nên, khi các bạn quán tưởng ký tự, cổ tự đó bằng sự thanh tịnh sẽ đến được với những Tâm quá khứ cũng như hiện tại của các tâm thanh tịnh đó. Tại nơi đó hành giả sẽ nhận được nguồn năng lực cộng hưởng rất lớn từ Tâm quá khứ nhiều đời của Chư Phật, cho đến tâm hiện tại của chủng tử đang quán tưởng, tu tập ký tự, cổ tự đó, và năng lực của bản thân hành giả khế hợp tạo thành một nguồn năng lực. Hành giả mang nguồn năng lực đó để cầu nguyện, chú nguyện những điều mang lợi ích cho chúng sanh, nhằm mang lại lợi ích cho chúng sanh và hộ trì Phật Pháp là cùng đồng với ý nguyện xa xưa của Chư Cổ Phật, chư vị bồ tát, chư Thánh chúng, Chủng tử đang tu tập.
Cho nên, sự quán vẽ những ký tự, cổ tự kia là dùng Tâm hiện tại của hành giả trở về với Tâm quá của Chư Phật, chư bồ tát, thánh chúng cùng đến với Tập khí quán vẽ Lam tự. Nơi đó, sự khế hợp đó, sự thanh tịnh, tâm trong sáng sẽ là là phương tiện của sự khế hợp, lấy tâm hiện tại trở về với tâm quá khứ – Ấn tâm để nhận được Tập khí thanh tịnh ba đời của Chư Phật qua Cổ tự Lam tự hay ký tự khác mà chư Phật, chư tổ đã để lại. Cho nên, khi quán vẽ Lam tự hoặc những ký tự trong những lá phép trong bí pháp Mật chú được trao truyền sẽ có những linh lực, năng lực là như vậy.
Trong việc thực hiện phép quán chữ Lam, bản thân tôi cũng có rất nhiều sự thị hiện, linh ứng cũng như ấn chứng về nó. Nhưng những ấn chứng đối với tôi điều không quan trọng, vì nó phải thật sự chứng minh bằng thực tế chứ không chỉ bằng linh ảnh thấy… Lần lượt, tôi xin chia sẻ với các bạn vài mẫu chuyện thị hiện linh ứng của Phép quán chữ Lam mà tôi đã từng trải.
Câu chuyện thứ 1:
LAM TỰ – PHÉP LẠ SIÊU NHIÊN XÓA TAN TẬT BỆNH
Một người cậu của Sư huynh trước kia của tôi, bị tai biến phải nhập viện. Ông ta đang trong tình trạng rất nguy hiểm vì khối máu bầm đã đi sâu vào Tiểu não. Bác sĩ gọi người nhà để trả về và nói rằng Tây y không thể can thiệp vì nếu như phẫu thuật ông ta sẽ chết trước khi lấy khối máu bầm đó ra. Khối máu bầm đó đi sâu vào tiểu não chén ép Thần kinh cho nên ông ta mê sảng và dần dần sẽ đi vào hôn mê cho đến khi chết.
Người nhà rất đau buồn và hoang mang. Gia đình rất nghèo, nằm việc chỉ nhờ vào thẻ bảo hiểm y tế dành cho người nghèo. Việc lo lắng cho ông không có khả năng cho nên chỉ trông chờ vào những viên thuốc của bảo hiểm cấp cho và cứ nằm đó chờ xem số phận.
Khi tôi đến thăm ông được nghe nói ông đã mê sảng hai ba hôm rồi. Cứ như thế ông ta không ngủ, luôn miệng la nói và tung người làm cho việc chuyền nước vào người ông ta gặp khó khăn. Vết máu từ đường chuyền đó loang lỗ vây khắp cả áo quần. Ông ta tung người vì cơ thể ông rất nóng bức và khó chịu. Nhìn thật tôi nghiệp. Ông mê sảng và không còn nhận ra ai là ai… Khi tôi bước vào nhìn thấy cảnh tượng như vậy thật sự thấy rất đau xót. Liền bảo với người nhà giúp tôi rót một cốc nước. Tôi cầm cốc nước đó liền quán chữ Lam vào ly nước đó và liên tục niệm Ngũ bộ chú cho đến khi tôi thấy ly nước đó có rất nhiều chữ Lam phát sáng rực bay lên chu biến khắp nơi. Tôi đưa cho người nhà và bảo cho ông uống ly nước đó. Người thân của ông dùng muỗng cho ông uống từng muỗng như vậy. Rồi tôi bước đến nhìn ông và nói: “Cậu năm, con là …đây mà, cậu hãy nghe con nói đây. Hãy cố gắng tỉnh lại và nghe con đọc Thần chú này nhé” Úm Lam, úm Lam, úm Lam…”. Ông ta thấy tôi bước đến và nghe tôi nói vậy mặc dù không nhận ra tôi là ai nhưng ông ta không còn vùng vẫy nữa và khoảng mười phút sau thì ông ta đi vào giấc ngủ và ngủ thiếp đi. Thật một điều vi diệu, vị hai ba hôm rồi ông ta không ngủ và cứ quậy phá như thế…
Hôm sau, tôi không đến thăm ông nhưng theo dõi thông tin về ông qua người nhà thì được biết ông ngủ rất nhiều và ba ngày sau đó thì được nghe thấy ông có dấu hiệu tỉnh táo trở lại nhận biết mọi người… Rồi sau đó ông hoàn toàn tỉnh lại và cục máu bầm trong tiểu não của ông kiểm tra thì đã tan mất… Thật một điều vi diệu!!!
Câu chuyện thứ 2:
LAM TỰ – SỰ HIỆN HỮU TRONG PHÉP QUÁN
Trong một lần làm đạo tại nhà một người bạn Nguyễn Ngọc Trâm, bạn học chung lớp Lương y cùng với tôi. Trước khi tôi trao pháp cho các bạn đạo. Tôi ra bàn thờ trước, bàn thờ được đặt ở trên gác và tôi chỉ lên trên gác một mình để cầu nguyện trước, cầu nguyện cho đàn pháp được chư vị hộ đàn gia hộ để tôi hoàn thành Phật sự. Đàn pháp đó, tôi vẽ vòng tròn quán tưởng kính đàn và vẽ vào đó chữ Lam, nhằm mục đích nhờ năng lực thanh tịnh của Lam tự – tức trở về với Tâm chư Cổ Phật ngày xưa để cầu sự gia hộ đàn pháp được sự thanh tịnh và lợi ích để hoàn thành Phật sự. Lúc đó, không có ai trên đó. Và các bạn tôi chỉ là hàng sơ cơ không biết nhiều, không tiếp xúc nhiều với Pháp tu Mật chú mặc dù hành trì rất siêng năng về Mật chú mà tôi đã trao.
Một vài người có biết đến chữ Lam vì tôi cũng đã vẽ cho họ và khuyến khích họ quán tưởng khi tu, nhưng thoái quen quán vẽ chữ Lam này của tôi họ không biết và cũng chưa bao giờ thấy tôi làm như thế. Và lần này, họ cũng không có mặt trên bàn thờ lúc tôi vẽ đàn pháp Lam tự… Khi đàn pháp vừa thực hiện xong, tôi hỏi mọi người có thấy gì không? Thì người này nói thấy cái này, thấy cái khác, thấy Đức Quan Thế âm nhìn họ mỉm cười .v..v… Trong đó, chị Ngọc Trâm nói với tôi rằng: “Dạ, em thấy khoảng không giữa bàn thờ có một cái vòng tròn phát sáng và có chữ Lam ở trong đó. Chữ Lam cũng phát sáng”. Nghe vậy, tôi mỉm cười…Và biết được mặc dù chỉ là sự quán vẽ như vậy trong không trung nhưng nó đã thực sự hiện hữu. Ngay đây, tức là tôi đã cầu nguyện và đi vào được với Tâm quá khứ của Chư Cổ phật xưa kia làm sống lại tâm quá khứ ấy, Lam tự phát sáng ấy đã tỏa sáng năng lực Thanh tịnh giúp cho đàn pháp Thành tựu.
Trên đây, là hai câu chuyện trong phép quán Chữ Lam . Mặc dù, so với sự tu học của những Chư Tổ, Thầy, huynh tỷ đi trước cũng chỉ là hạt muối đổ Biển nhưng với tôi đó cũng là một sự cố gắng…Là một niềm vui là cái thấy, biết.
Sẽ còn có rất nhiều Bí mật biến chuyển trong phép quán Lam tự này tùy theo duyên mà mỗi người hành giả sẽ được chứng nghiệm, thấy khác nhau. Có rất nhiều bạn đạo nói với tôi rằng: “tại sao quán mãi chữ Lam nhưng không phát sáng, vậy là tu không thành tựu”. Tôi hỏi lại các bạn: “Vậy các khi quán chữ Lam đó cảm giác của bạn như thế nào?”. Họ trả lời: “Thấy rất an lạc, và thoải mái”. Tôi cười và nói: “Ngay cái an lạc và thoải mái đó mới là sự thành tựu”.
Đó là cái hiện hữu, thực tế, lợi ích mang lại cho hành giả từ phép tu. Và mặc dù, các bạn không thấy vì chưa đủ nhân duyên để nhìn thấy sự phát sáng đó nhưng khi hành giả quán vẽ, niệm nó tức là nó hằng đã hiện hữu ngay đó rồi. Sự hằng hiện hữu đó sẽ mang năng lực lớn hay nhỏ để thực hiện, mang đến cho hành giả sự an lạc, hạnh phúc. Và năng lực đó chính là Tập khí thanh tịnh ba đời của Chư Phật. Và sự quán vẽ đó chính là đưa tâm hiện tại của hành giả trờ về khế hợp với Tâm quá khứ của Chư Cổ Phật ngày xưa. Ngay đó, tâm ấn tâm, tâm truyền tâm, trở thành tập khí thanh tịnh cho cá nhân hành giả.
Qua bài viết  này, nhằm giúp ích cho các đạo hữu những lợi ích nho nhỏ trong phép quán Lam tự hay ký tự cổ xưa trong Bí pháp Mật tông.
Chúc các bạn an lạc, và đạt nhiều thành tựu!!! Hãy nhớ nghĩ, quán nghĩ đến tập khí thanh tịnh xưa kia ba đời của chư Cổ Phật, ngay đó các bạn sẽ nhận được tập khí thanh tịnh đó….
Hoa Tâm Cư Sĩ.
http://www.daibi.vn/2012/09/lam-tu-tap-khi-thanh-tinh-ba-doi-cua-chu-phat/