Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

Những khai thị từ Đức Liên Hoa Sanh Về con đường đại toàn thiện(2)



Kho báu ngọc quý để xua tan các chướng ngại

Các trả lời cho các câu hỏi của Yshe Tsogyal

Ở nơi ẩn cư Samye Chymphu, công chúa Tsogyal xứ Kharchen, thỉnh cầu Đạo sứ Padmakara: Xin chiếu cố, Đại sư! Dù Ngài đã chỉ cho một cô gái kém thông minh như con rằng: Tất cả thế giới và chúng sanh là Pháp thân. Vậy mà sự tu hành pháp của con vẫn lạc vào hiểu biết lý thuyết ý niệm do liên hệ tương tục với tập khí của tri giác sai lầm. Con xin Ngài từ bi ban cho con sự chỉ dạy, cho phép con nối kết bất kỳ điều gì con làm với bản tánh bổn nhiên của Pháp tánh!
Padmasambhava trả lời: Hãy nghe đây Tsogyal! Con phải có ba điểm then chốt khi thực hành giáo lý Mật thừa của Đại thừa: Điểm then chốt của thân, tư thế; điểm then chốt của mắt, cái nhìn; và điểm then chốt của tâm: cách thức an trụ.
Trước hết, trong một nơi kín đáo, ngồi tư thế khoanh chân kiết già trên một toạ cụ thoả mái, để hai tay ngang nhau, dựng thẳng xương sống. Nếu thân con duy trì trong trạng thái bổn nguyên của nó, thiền định xảy ra đến tự nhiên. Không thực hiện tư thế thân thể đúng, thiền định sẽ không xảy ra.
Tiếp theo, đối với cái nhìn, chớ nhắm mắt, chớp mắt hay nhìn qua bên. Hãy nhìn thẳng không lay động vào trước mặt. Khi cái thấy của mắt và tâm thức chia nhau một bản tánh đơn nhất, bấy giờ thiền định xảy ra tự nhiên. Không có cái nhìn đúng thiền định không xảy ra.
Điểm then chốt của tâm là thế này: Chớ để trạng thái bổn nhiên của tâm bình thường theo đuổi các dạng thức quen thuộc ở quá khứ. Chớ để nó nhìn về các hoạt động phiền não ở tương lai. Và chớ để nó tạo tác thứ gì bằng danh tướng, ý niệm trong trạng thái hiện tại của con. Qua sự an trụ tỉnh thức trong cách thế tự nhiên của nó, thiền định xảy ra tự nhiên. Nếu con phóng tưởng hay tán tâm, thiền định không xảy ra.
Khi trong cách này, con để cho ba cửa ở yên trong trạng thái tự nhiên của chúng, mọi vọng niệm thô và tế lắng xuống, tâm con yên ổn thả lỏng trong chính nó (đây gọi là Samatha, Chỉ). Khi tâm con không chướng ngại, vô trụ, và trần trụi trong sự tỉnh giác tự nhiên (đây gọi là Vipashyana, Quán)(1). Khi cả hai trong một khoảnh khắc thức giác, an trụ trong sáng một cách sống động như là một thực thể, không thể phân chia, đó gọi là Chỉ không lìa Quán. Hiểu biết theo danh tướng, ý niệm là khi con đặt ý thức như một đối tượng. Kinh nghiệm là khi con khám phá tính vô trụ của nó và chứng ngộ xảy ra khi các trạng thái này của tâm an trụ trong sáng một cách sống động, như là yếu tính sự thiền định của con. Cái ấy không có một khác biệt nào với sự chứng ngộ của chư Phật ba đời. Nó không phải là một sự tạo tác đặt căn bản trên lời dạy sâu xa của vị thầy, cũng không phải là kết quả của trí thông minh sắc bén của một đệ tử. Đó gọi là đạt đến trạng thái bổn nhiên của nền tảng.
Khi tham thiền như thế, ba kinh nghiệm về lạc, trong sáng và vô niệm sẽ hiện bày.
Tâm thức tự do khỏi tưởng gọi là vô niệm và có ba loại: "Không có niệm thiện" nghĩa là tự do khỏi sự bám níu vào người tham thiền và đối tượng được tham thiền. "Không có niệm ác" là sự cắt đứt dòng tư tưởng thô và tế. "Không có niệm trung tính" là sự nhận ra khuôn mặt bổn nhiên của tánh Giác như là không chỗ trụ.[1]
Trong trạng thái vô niệm này, sự trong sáng là sự sáng rỡ không bị che chướng và trần trụi của tánh Giác. Có ba loại trong sáng: "Trong sáng tự nhiên" là trạng thái tự do khỏi một đối tượng."Trong sáng bổn nguyên" không xuất hiện một thời gian nhất thời. "Trong sáng bổn nhiên" thì không do ai tạo ra được.
[1]
Có bốn loại lạc: "Phúc lạc cảm nhận" là tự do khỏi các điều kiện đối nghịch của không hoà điệu. "Lạc không có tưởng" là tự do khỏi sự đau khổ của ý niệm, danh tướng. "Lạc bất nhị" là tự do khỏi sự bám níu, sự trụ tướng nhị nguyên. "Lạc vô điều kiện" là tự do khỏi nguyên nhân và điều kiện.
Khi các loại kinh nghiệm này sanh khởi, con cần ba thứ xả ly: "Xả ly lạc" là giống như một người điên. "Xả ly sự trong sáng" là giống như giấc mơ của một trẻ nhỏ. "Xả ly vô niệm" là giống như một thiền giả đã hoàn thành sự tu hành thiền định của mình. Khi con có các thứ này, con thoát khỏi các khuyết điểm của thiền định.
Nếu con bị hấp dẫn và bám níu vào ba kinh nghiệm này, con lạc vào ba cõi. Khi bám níu vào lạc, con sẽ lạc vào Dục giới. Khi bám vào sự trong sáng, con sẽ lạc vào Sắc giới. Khi bám vào vô niệm, con sẽ lạc vào Vô sắc giới.
Dầu cho con nghĩ rằng: Con không dính cũng không bám vào chúng, con cũng còn một sự dính chấp vi tế bên trong. Để cắt đứt cái bẫy này, có chín trạng thái định liên tiếp nhau, khởi đầu bằng bốn thiền để xa lìa tư tưởng tham ái. "Sơ thiền" là thoát khỏi ý tưởng về người tri giác và cái được tri giác, nhưng vẫn còn nằm trong sự phân biệt một đối tượng và hành động tham thiền. "Nhị thiền" là thoát khỏi ý tưởng và phân biệt, trong khi còn trụ vào sự thưởng thức mùi vị vui sướng của định. "Tam thiền" là đạt đến tâm không động, nhưng còn hơi thở vào và hơi thở ra. Định của "Tứ thiền" hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng ý niệm với sự tri giác trong sáng, không bị che chướng.
Bốn thiền vô sắc tẩy trừ tư tưởng ý niệm về sắc giới. Trụ vào ý tưởng "tất cả hiện tượng đều như hư không", con lạc vào Không vô biên xứ. Trụ vào ý tưởng "thức là vô cùng và không phương hướng", con lạc vào Thức vô biên xứ. Trụ vào ý tưởng "Cái biết trong sáng là không hiện diện, không vắng mặt và không thể tạo thành một đối tượng của tri thức", con lạc vào Không hiện diện cũng không vắng mặt (Vô sở hữu xứ). Trụ vào ý tưởng "Tâm này không nhờ vào một thực thể nào; nó là vô hữu và trống không", con lạc vào cõi tri giác về Không có gì tất cả. Các trạng thái này còn có sự nhiễm ô vi tế của ý niệm danh tướng, sự hấp dẫn thuộc về tâm thức và các kinh nghiệm của tâm nhị nguyên.
Diệt thọ tưởng định xa lìa các ý niệm về các trạng thái này. Sự dừng bặt thuộc về phân tích là sự dừng dứt của sáu thức đi vào với các đối tượng của chúng, nó gồm cả sự cắt đứt hoạt động của hơi thở và tâm nhị nguyên. Sự dừng bặt thuộc về không phân tích là đi đến tự tánh của con. Đó là sự thản nhiên tối hậu.
Trong chín cấp bậc định này, bốn trạng thái thiền là "Chỉ sanh ra Quán". Như thế, định của bốn thiền này là hoà hợp với tự tánh, và là cái trổi vượt nhất trong mọi loại định thuộc về thế gian.
Bốn thiền vô sắc là các bẫy của định. Diệt thọ tưởng định là cái định bình an của bậc Thanh văn.
Bằng sự hiểu biết những trạng thái này, con có thể phân biệt các loại định khác nhau, xoá tan các chướng ngại trong thực hành thiền định và không đi lạc.
Năm con đường bao gồm trong ba. Cắt đứt các bẫy này và thực hành một thiền định không khuyết điểm, con an trụ thanh tĩnh và sống động trong phúc lạc, trong sáng và vô niệm suốt trạng thái thiền định(1). Trong trạng thái sau thiền-định, các hình tướng khởi lên không ngăn chướng, đều vô tự tánh như một giấc mộng hay ảo huyễn. Con biết được bản tánh của nhân và quả, làm đầy công đức đến mép, đạt được "hơi ấm của định" và như thế hoàn thành "con đường tích luỹ".
(1) Rõ ràng, có một hay hai câu thiếu trong nguyên bản. Phần trong ngoặc là của tôi (EPK).
Thực hành như thế một thời gian dài, con thấy được một cách hiện thực, bản tánh vô trụ và tự chiếu hiện diện nơi con. Nhận ra bản lai diện mục của con là con đường của cái thấy. Kinh nghiệm các tướng, trí huệ tánh Không là vô sở trụ và tự thông tỏ, tức là con thấy trực tiếp bản tánh bổn nhiên không tuỳ thuộc điều kiện. Sự ngăn che của phiền não bị phá huỷ tận gốc rễ. Chứng ngộ rằng: Nhân và quả đều trống không, sanh tử không có hiện hữu chắc thật. Đây gọi là địa đầu tiên, Hoan Hỷ địa. Trạng thái thiền định không lìa rời Phật tánh và mọi sự sau-thiền-định sanh khởi như ảo huyễn.[1]
Quen dần với trạng thái này và hộ trì nó một cách vững chắc, mọi hiện tượng trở nên bất nhị. Hãy nhận biết chúng như là tự tâm hiện, các hình tướng và tâm hoà trộn thành một. Khi tánh Không sanh khởi như nhân và quả, con chứng ngộ duyên sanh. Suốt trạng thái thiền định mọi hiện tượng là không chỗ trụ và hiện diện như tính chất của tánh Giác. Sự hiện diện nhẹ nhàng của các hình tướng bên ngoài trong thời gian sau thiền-định là con đường của sự tu tập.
Duy trì điều ấy một thời gian dài, con chứng ngộ rằng sanh tử và Niết bàn là bất nhị. Vượt khỏi sanh tử và diệt, là vô trụ xứ và tự thông tỏ không trộn lẫn nhiễm ô, rốt ráo hoàn thiện. Sự che chướng trí huệ hoàn toàn biến mất, vào khoảnh khắc tất cả mọi sự hiện ra như tánh Giác bổn nguyên là con đường thành tựu, tức là trạng thái Phật tánh.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố, thưa Đại sư! Đây là tánh bổn nhiên của sự vật, nhưng làm thế nào người ta ứng dụng, thi hành cho đến khi đạt đến an định?
Padmasambhava trả lời: "Nghe đây Tsogyal! Có ba loại cư xử. Trước hết, để thiết lập con đường có cách cư xử chung, tổng quát. Tiếp theo, để làm phát sanh sự nâng cấp, có cách cư xử bí mật của kỷ luật Du già. Cuối cùng, có cách cư xử mật tối hậu rốt ráo của tánh Như chân thật.
Cư xử thì rất quan trọng, vì phần lớn đời sống xảy ra trong những hoạt động hàng ngày sau thiền-định. Con có thể hiểu một cách trí thức một cái thấy cao sâu, nhưng trừ phi con hành động thuận theo ý nghĩa của nó, thì con sẽ lạc khỏi con đường. Con có thể đạt được một trạng thái thiền định tuyệt hảo, nhưng trừ phi con duy trì được nó suốt các hoạt động sau thiền-định, nó sẽ nhạt mất. Bởi thế, phải hiểu thấu điểm cốt yếu nhân-quả: Không có hạnh xấu và hoàn thành ngay cả các hành động đức hạnh nhỏ nhất. Đó là con đường đúng, tinh tuý của giáo lý Đức Phật, điểm cốt yếu của trí huệ.
Nếu đã có một thân người, con muốn thực hành pháp thiêng liêng một cách đúng đắn. Chớ để cho ba cửa của con lạc vào sự bình thường thế tục, dù chỉ một khoảnh khắc. Trong sự thực hành ban ngày hãy buông thả cho tâm thức con không tạo tác và để cho kinh nghiệm của sáu giác quan được tự do thư thả, như một giấc mộng hay trò huyễn hoá. Ban đêm, hoà trộn giấc ngủ sâu với pháp tánh trong một trạng thái vô niệm, thoát khỏi sự phóng xuất hay tan biến của tư tưởng. Hãy tịnh hoá kinh nghiệm mê lầm của trạng thái mộng, dẫn nó về đường chánh. Thế là nghĩa là tu hành tình thương đại bi và Bồ đề tâm, trong sự lần hồi quen thuộc với các giai đoạn phát triển và thành tựu.[1]
Sáng và chiều, cử hành sự tịnh hoá bảy phần(1), chớ xao lãng các dâng cúng Torma hàng ngày và các thứ. Sám hối các nghiệp xấu với thần chú một trăm âm. Hãy cẩn thận với điểm cốt yếu là nhân quả. Suy nghĩ trở đi trở lại [1]về sự khó khăn có được tự do và của cải, về cái chết, sự vô thường và về những lỗi lầm khuyết điểm của sanh tử.[1] của tất cả chúng sanh.
Hãy tu hành Bồ đề tâm. Tu hành giai đoạn phát triển, đến mức độ mà mọi cái gì xuất hiện và có mặt là mạn đà la của hoá thần. Đối với giai đoạn thành tựu, hãy an trụ trong trạng thái bất nhị, nó là các hình tướng không có tự tánh như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước. Lúc chấm dứt, hãy hồi hướng công đức.
Thực hành theo cách này, con hoà điệu với các thừa tổng quát, con tiến triển trên con đường đúng và con đã thiết lập nền tảng cho con đường của Yoga.
Thực hành cư xử bí mật của kỷ luật Yoga. Sau khi con đã thiết lập nền tảng của con đường và đã đạt được kinh nghiệm, thấu hiểu tin vào cái thấy và trạng thái chân thật. Cư xử bí mật nâng cấp con đường này và cắt đứt tư tưởng ý niệm. Nó có thể theo đuổi bởi hành giả có sự quen thuộc nhiều và an định vững chắc trong thực hành.
Về sự thực hành đúng của Đại thừa, có cái thấy của sự thấu hiểu rằng mọi đối tượng là không thật. Đối với Mật thừa, có cái thấy về vòng hoá thân, giai đoạn phát triển và tính bất nhị vượt khỏi các bên,tức là giai đoạn thành tựu.
Khi con nhận thấy mọi chúng sanh là cha mẹ mình, con làm sanh khởi con đường qua sự hành tâm con trong Bồ đề tâm. Để cắt đứt sự chấp ngã và tin vào ma quỷ, hãy đến một nơi dễ sợ và cắm trại trong một chỗ đáng sợ nhất. Hãy bắt đầu với việc quy y Tam bảo, phát triển Bồ đề tâm và cầu xin Guru của mình. Rồi sau một hồi lâu thành khẩn quán tưởng từ bi và Bồ đề tâm đối với tất cả chúng sanh nhiều như hư không, mà đầu hết là quỷ ma của vùng ấy. ở lại và đi ngủ trong Bồ đề tâm tối hậu, trạng thái đại lạc không bị ngăn ngại, vượt khỏi sanh, trụ, diệt trong đó chư thiên và quỷ ma là bất nhị. Khi con cảm thấy sợ hãi, tập trung và chú tâm vào sự suy nghĩ này: "Sự sợ hãi này khởi ra từ sự tin vào ma quỷ, nó nảy ra từ sự không tin rằng mọi chúng sanh là cha mẹ mình". Bấy giờ, sự phóng xuất tư tưởng ấy xuất hiện như là ma quỷ. "Làm thế nào mà Bồ đề tâm của ta, nó chỉ là những lời vô vị và các ý niệm tri thức, thành tựu được chân nghĩa?". Chú tâm như thế, trau dồi đại bi và Bồ đề tâm thành thật, dâng tặng thân con chẳng màng chi cho mọi vị thần và quỷ ma, đầu hết là quỷ ma của vùng ấy. Nói rằng: "Hãy lấy thịt xương, máu huyết của ta, như các người muốn!" để tâm con an định trong Bồ đề tâm.
Cùng một cách ấy, khi con có một ý nghĩ về thần hay quỷ và Bồ đề tâm của con dao động, hãy nghĩ: "Đây là một phóng ảnh do sự tin vào quỷ ma!" và đem cho họ thân con chẳng màng, rồi ở yên trong sự bình thản. Nếu một hồn ma thật sự xuất hiện, hãy nhảy thẳng vào miệng nó hay vào lòng nó và hoàn toàn bỏ đi ý niệm yêu quý thân con. Trau dồi tâm bi và hồi hướng công đức.
Khi sự tin vào quỷ ma bị cắt đứt, các hiện hình ma quái và phô diễn ảo ảnh lắng xuống, quỷ ma của vùng ấy rơi vào sự kiểm soát của con. Sự lắng yên của tư tưởng và sự thuần hoá quỷ ma xảy ra đồng thời.
Một khi con hiểu rằng mọi chúng sanh là cha mẹ mình, lúc ấy con không thể tin vào quỷ ma; còn có tin vào quỷ ma, ấy là con chưa tu hành đầy đủ.
Thứ hai, cắt đứt(1), hãy nhận biết rằng mọi đối tượng là không thực. Để cắt đứt sự tin vào quỷ ma và sự trụ vào ảnh hưởng của chúng như là thật có. Hãy đi đến nơi khủng khiếp nhất để làm mạnh thêm cái thấy về các hình tướng không thật của con. Quy y, phát triển Bồ đề tâm và cầu nguyện. Khi nhận ra rằng mọi hình tướng đều không thật, mọi ý niệm đều là vọng tưởng, mọi sự đều trống không và cái thấy biết của con hiện giờ cũng giống như một giấc mộng hay một ảo giác huyễn hoá. Lúc ấy, hãy đi ngủ trong trạng thái Không vô quái ngại, trong đó rốt ráo không có gì hiện hữu.[1]
Khi con cảm thấy sợ hay khủng khiếp, hãy tập trung tâm con, nghĩ như thế này: "Không hiểu được rằng sợ hãi và khủng khiếp đều giống như một giấc mộng và ảo giác huyễn hoá, ta tin vào ma quỷ. Bây giờ, sự phóng tưởng này khởi lên để chỉ cho ta thấy rằng, cái thấy về như huyễn của ta chỉ là sự hiểu biết ngoài mặt ý thức. Sự hiểu biết ý thức ấy sẽ không thành tựu thật nghĩa!". Tập trung và chú tâm vào ý nghĩ này, ở yên thoải mái trong trạng thái tất cả đều không thật và huyễn ảo.
Con phải nhận biết bản chất không thật của sự phóng tưởng niềm tin của quỷ ma, ngay lúc tư tưởng hay trò huyễn thuật xảy ra. Quyết định rằng nó không có thực tại nào, mà thật sự chỉ giống như huyễn hoá. Nếu trong thực tế một hồn ma xuất hiện, hãy khẳng định rằng nó không thật và nhảy thẳng vào lòng nó. Ngọn gió xoáy của sự hiện hình ma quái sẽ biến mất và con đi qua nó không chướng ngại. Ngay khi con cắt đứt được sự tin vào ma quái, sự biến hiện huyễn ảo tự nhiên lắng yên. Vượt qua được tư tưởng của con và chấm dứt quỷ ma xảy ra đồng thời.
Thứ ba, để cắt đứt, tu hành một "giai đoạn phát triển" vững chắc. Nhờ đó kinh nghiệm của con biểu lộ như là hình tướng của hoá thần.
Để nâng cao giai đoạn phát triển của con, cắt đứt sự tin ma quỷ và sự bám chấp nhị nguyên vào một thế giới chúng sanh, hãy đi đến một nơi đáng sợ. Một khi đã phát khởi sự quy y ở đó, phát triển Bồ đề tâm và cầu nguyện. Quán tưởng quang cảnh chung quanh như là cung điện cõi trời và mọi chúng sanh, đặc biệt là hồn linh của vùng ấy, như là hó thần bổn tôn. Trì tụng thần chú tinh tuý làm bén thêm chánh niệm tỉnh thức, làm sáng tâm con và thiền định một thời gian dài. Ôm trọn tánh Không tối hậu với điểm cốt yếu. Đi ngủ trong trạng thái, trong đó mọi thứ dù có xuất hiện cũng không tự thể. Khi một tư tưởng sợ hãi hay khủng khiếp nổi lên, gom tâm vào nhất niệm và suy nghĩ thế này: "Không nhận ra hình tướng đáng sợ và làm khiếp hãi như là hoá thần bổn tôn, tôi tạo ra sự tin vào quỷ ma. Bây giờ sự phóng ảnh của nó xuất hiện như một biến hiện ảo hoá. Giai đoạn phát triển của tôi chỉ là danh từ và hiểu biết nơi bề mặt ý thức.
Làm thế nào nó sẽ đưa tôi đến giai đoạn thành tựu? Tâm nhất niệm, bỏ đi sự tham trước thân thể và đem nó cho đi như một món quà của một buổi tiệc. Quán tưởng sống động rằng tất cả cái gì xuất hiện và hiện hữu là hoá thần bổn tôn.
Dâng cúng thân thể con như là cam lồ và cho tất cả chúng sanh, cầm đầu là các ma quỷ quấy phá. An trụ tự do trong trạng thái bất nhị không ngăn ngại.
Sự tin vào ma quỷ khởi lên, vì khi hình tướng ma quái hay biến hiện huyễn hoặc xảy ra, con không thấu rõ hình tướng và mạn đà la của hoá thần. Hãy nghĩ rằng: "Đây đúng là một phóng tưởng!" và nhớ đến bổn tôn.
Đạt được vài thành tựu là do thấu hiểu được rằng con và ma quỷ đều cùng một bản tánh như hoá thần. Thế nên, hãy nghĩ rằng: "Gặp được bổn tôn thì thích thú biết bao!". Hãy ôm choàng lấy ma quỷ bằng cách nhảy vào lòng nó, đi vào trong miệng nó và trộn lẫn tâm các con một cách không phân biệt. Trình diện thân xác con như là một quà biếu cho buổi tiệc. Qua việc làm này, con sẽ hiểu rằng các tướng là hoá thần và như thế tất cả các ý niệm dừng bặt, trò biến hiện tự nhiên lắng xuống và hồn linh của nơi chốn ấy rơi vào sự kiểm soát của con!
Thứ tư, để cắt đứt, hãy hiểu bản tánh của bất nhị nhờ vào một cái thấy vững chắc của giai đoạn thành tựu.
Dùng sự sợ hãi, sự tin vào ma quỷ để nâng cao tính chất bất nhị của giai đoạn thành tựu. Để làm thế, hãy làm những điều sơ khởi và an trụ thư thả trong trạng thái bất nhị, trong đó thân và tâm là không hai, tướng và tâm là không hai, ta và người là không hai, bạn và thủ là không hai, chư thiên và ma quỷ là không hai. Tóm lại, an trụ trong trạng thái nơi đó không có bất kỳ hiện tượng nhị nguyên nào. Duy trì sự liên tục này không lơi lỏng.
Nên sự biến hiện ảo hoá hay tư tưởng về ma quỷ xảy ra, khi thực hành như thế này, hãy chú tâm vào tính bất nhị, nghĩ rằng: "Sự phóng ảnh này, sinh từ nghi ngờ, là do bởi tâm ta không an định nhất tâm trong tánh bất nhị!". Ngay khi sự tin vào ma quỷ khởi sinh, yên nghĩ tự do trong tánh bất nhị. Nếu một quỷ ma thực sự xuất hiện, chú tâm một cách nhất niệm và nghĩ rằng: "Tuyệt vời thay có được cơ hội để tu hành trong bản tánh bất nhị như là sự làm mạnh thêm cái thấy!" nhảy vào lòng ma quỷ, và con sẽ đi qua nó không chướng ngại trong tánh Không bất nhị và không nền tảng. Cuối cùng ma quỷ không có một thực thể nào.
Theo cách này, nghĩa của tánh bất nhị hiện rõ bên trong con. Tư tưởng nhị nguyên tin vào ma quỷ bị cắt đứt và sự biến hiện ảo giác bên ngoài lắng xuống. Khi con chứng ngộ tánh bất nhị, con cũng có được sự chế ngự đối với sức mạnh xấu ác và ngăn chặn quỷ ma. Điều này nhờ vào tánh bất nhị và sự duyên sanh lẫn nhau giữa tướng và tâm.
Kết quả là khi con còn hiện hữu thì các quỷ ma còn hiện hữu; khi con bình an thì các quỷ ma bình an; khi con giải thoát, các quỷ ma được giải thoát; khi con được thuần hoá, các quỷ ma cũng thuần hoá. Quỷ ma là quỷ ma của chính con và cắt đứt nó làm cho con an bình. Thế nên, chính là một sự nâng cao, làm mạnh thêm lớn lao khi giáp mặt với một nơi chốn đáng sợ, hơn là hành thiền định trong ba năm.
Cách cư xử bí mật này không chỉ nhắm đến tư tưởng về quỷ ma, mà còn để cắt đứt các bệnh dịch truyền nhiễm như là: bệnh cùi và các cảm giác sợ hãi, dị ứng ghê tởm, nhút nhát, hèn nhát, bối rối vv... Tóm tắt, bất kể loại tư tưởng nào khởi ra, hãy cắt đứt nó như ở trên.
Cuối cùng, cư xử tối hậu của tánh Chân Như là thoát khỏi sự nhị nguyên của chư thiên và ma quỷ. Tự do khỏi sự nhị nguyên của sạch và dơ, thì nút khoá của sự trụ tướng nhị nguyên được cởi mở. Tự do khỏi sự thúc đẩy của sự muốn đừng có, muốn trau dồi hay bám níu, thì tất cả ý niệm về sanh tử và Niết bàn hoàn toàn tiêu tan mất trong tánh Giác bất nhị rộng rãi vô biên, và con sẽ an trụ trần trụi, độc diện như là nhất thể bất nhị, cái tính chất của đại lạc.
Vào lúc ấy, nếu ngay cả Dharmaraja, Thần chết móc vào con và đem con đi, con sẽ không cảm thấy sợ hãi. Nếu ngay cả Phật Vajrasattva xuất hiện, con cũng sẽ không có một nghi ngờ nào hay không chắc để quyết đoán. Đây chính là sự cư xử tối hậu của thật nghĩa.
Qua các loại hành xử bí mật này, con thiết lập nền tảng của trạng thái bổn nhiên, làm mạnh thêm cái thấy, tinh lọc sự thực hành và hưởng quả. Lời dạy này là cực kỳ sâu xa.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố cho, thưa Đại sư! Con thỉnh cầu Ngài, từ bi ban cho con giáo huấn cốt lõi nó cắt đứt gốc rễ của khổ đau, ở trong sự tỉnh giác hiện tiền đưa cả hai sự sanh và sự chết vào đường Đạo.
Padmasambhava trả lời: Nghe đây Tsogyal! Chỉ bày các điểm then chốt của thực hành qua năm Yoga, Ta sẽ dạy con giáo huấn cốt lõi dùng bất cứ điều gì con làm như chính con đường.
* Thứ nhất, đối với Yoga giấc ngủ, giây phút rơi vào giấc ngủ giống như đang chết. Bởi thế, phục hồi các Samaya của con, lập lại các thệ nguyện Thanh văn, làm trong sạch dòng tâm thức, cắt đứt sự phức tạp của ba độc, vắng bặt sự nhớ nghĩ và suy tính. Hãy để mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong hoàn toàn tự do trong đại định của Tánh Như, trạng thái không trụ vào bất cứ cái gì. Rơi vào giấc ngủ trong trạng thái của giai đoạn thành tựu không chướng ngại, Pháp thân không ý niệm phân biệt, tức là dùng cái chết như con đường.
Làm tan biến mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong, thế giới và chúng sanh, chủ tướng và tuỳ tùng, vào trong chủng tự ở trung tâm trái tim của con. Bằng cách ngủ trong trạng thái không trụ, con dùng ý niệm về cái chết như con đường.
* Thứ hai, Yoga của sự thức dậy giống như sự sinh ra. Ngay khi thức giấc, nhớ lại một cách sống động sự tỉnh giác không chướng ngại từ trong giai đoạn thành tựu. Điều này làm tịnh hoá sự tái sinh.
Tiếp theo, con phải hiểu các điểm mấu chốt của nhân quả. Điều này đem đến sinh khí cho bất kỳ sự thực hành tâm linh nào con làm và là một sự làm mạnh thêm hơn những cái gì khác.
Buổi bình minh, phân phát phần tính chất trong sạch của thức ăn vào trong các kinh mạch và thải các phần dơ bẩn. Khi bên trong các kinh mạch hoàn toàn trống rỗng, các lỗi lầm hay đức hạnh bên ngoài, bên trong và bí mật dễ dàng khởi sanh. Lúc ấy, các kinh mạch khởi lên như là kinh mạch trung ương, khí Prana như là trí huệ, các nguyên tố như là đại lạc và tân con như là tánh Giác bất nhị. Đây cũng là mục tiêu của sự thi hành vài loại chữa bệnh y học hay nghi thức chữa bệnh. Hơn nữa, nó chính là lý do tại sao Đức Phật chứng ngộ sự thật và giác ngộ viên mãn vào lúc bình minh.
* Thứ ba, Yoga về thức ăn phải được phối hợp với một sự truyền pháp và lực của Mật thừa. Nếu con thực hành giai đoạn phát triển, hãy dùng thức ăn như là cam lồ của trí huệ. Hãy quán tưởng hoá thần trong bụng con, hãy hưởng thụ thực phẩm như là một hoá thần hoà tan vào một hoá thần.
Nếu con thực hành tịnh hoá nghiệp chướng, hãy dùng thực phẩm như là cam lồ trí huệ. Hãy ăn theo cách hoàn toàn thiêu cháy các chủng tử của sáu loài chúng sanh, các chủng tử đó hiện diện trong hình thể các chữ ở trong lòng con.
Nếu con thực hành giai đoạn kết hợp, hãy dùng thức ăn như là cam lồ của phương tiện và trí huệ bất nhị, ăn trong cách kết hợp.
Nếu con thực hành giai đoạn thành tựu, hãy dùng thức ăn như là trí huệ của tướng và Không đồng hữu. Hãy thưởng thức pháp tánh ăn pháp tánh.
Tóm lại, hãy an trụ không phân chia trong bất cứ định nào con đang thực hành và hưởng thụ. Theo cách này, bất cứ đồ ăn nào con dùng đều trở thành nguyên nhân cho đại định.
* Thứ tư, về Yoga liên tục, một hành giả thực hành con đường một cách đúng đắn, phải không bao giờ dung tha cho những phiền não bình thường. Người ấy phải nhận ra mọi mối xúc động khởi ra, nhờ vào những kỹ thuật đặc biệt và đem chúng vào con đường đúng.
Gốc rễ của phiền não là năm độc; ở đây làm thế nào dùng chúng như là con đường. Khi tham muốn mạnh mẽ khởi lên, nhận ra chúng bằng chánh niệm và tư duy về nguyên nhân của nó. Nó khởi sanh vì một tác nhân bên ngoài, bị chao động bởi sự thúc đẩy tình dục với người khác giới. Bây giờ, sự đau đớn của tham muốn cũng như một vòi nước mạnh phụt ra. Cuối cùng tâm con sẽ hoàn toàn tan vào khuôn khổ của điều mà con đã thường quen.
Để nhận ra khuôn khổ này, hãy hiểu rằng tác nhân hấp dẫn bên ngoài là do tâm con tạo ra. Nếu không phải thế, thì không có chuyện người con yêu lại được nhìn như một kẻ thù bởi người khác. Sự thúc đẩy tình dục khởi từ tâm con và biểu lộ như tham muốn, giống như ngọn gió khởi từ bầu trời trống rỗng.
Bây giờ, đây là cách làm thế nào nhìn vào yếu tính của tham dục và dùng nó như con đường. An trụ trong trạng thái trong đó tác nhân hấp dẫn bên ngoài và sự thúc đẩy tình dục thoát khỏi nhị nguyên. Tham muốn do đó trở thành yếu tính của Lạc và Không bất nhị. Tự tánh của tánh Không không được tạo ra từ bất kỳ cái gì, nên sự biểu lộ của nó chính là lạc. Đây là sự hoàn thiện của tham muốn, tức là Diệu quan sát trí.
Cũng thế, bằng cách nhìn vào yếu tính của giận dữ và an trụ trong nó, con chứng ngộ yếu tính bất nhị của sáng tỏ và tánh Không. Tự tánh là trống không và sự biểu lộ của nó là sáng tỏ. Đây là sự hoàn thiện của giận dữ, tức là Đại viên cảnh trí.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của ngu si và an trụ trong trạng thái đó, con chứng ngộ tánh Giác không có ý niệm. Tự tánh là trống không và sự biểu lộ của nó là vô niệm, không tư tưởng. Sự hoàn thiện của ngu si là Trí pháp giới.
Trong cách như thế, do đem kiêu mạn và ganh ghét vào con đường mà chúng trở thành Bình đẳng tánh trí và Trí thành tựu tất cả (Thành sở tác trí).
Tóm lại, mười điều xấu sanh từ năm độc. Năm độc đến từ ba độc tham, sân, si. Bằng cách nhận ra ba độc này và dùng chúng như là con đường, con giữ vững được các giáo lý của ba tạng và an trụ trong ba sự tu hành.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của tham muốn và an trụ trong trạng thái ấy, con kinh nghiệm lạc phúc, nó trở thành Luật tạng. Con lìa bỏ tham muốn bình thường, đó là sự tu hành Giới.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của sân và an trụ trong trạng thái ấy, con kinh nghiệm sự sáng tỏ, nó thành Kinh tạng. Con lìa bỏ sân hận thông thường, đó là sự tu hành Định.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của si và an trụ trong trạng thái ấy, con kinh nghiệm vô niệm, nó trở thành Luận tạng. Con lìa bỏ ngu si thông thường, đó là sự tu hành Trí huệ phân biệt.
Con sẽ nhận ra mọi phiền não khởi lên và bằng cách này đem chúng vào con đường.
Thứ năm là Yoga về thời gian và các điểm cốt yếu. Có năm thời"
*        Thứ nhất, lúc bình minh phần trong sạch và không trong sạch của thức ăn tách lìa nhau, tâm con bén nhạy, thân con mới mẻ, trí thông minh trong sáng và các bindu tăng thêm. Sức mạnh của lầm lỗi hay đức hạnh mạnh thêm, đến độ cần phải nhận ra bất kỳ tư tưởng nào sanh khởi như là tham và đem chúng vào con đường đức hạnh.
* Thứ hai, và lúc hoàng hôn, sức mạnh của bindu giảm đi và cảm giác lo lắng có thể khởi ra. Các sự hoá hiện của thần và quỷ ma lớn lên. Thời gian này giống như sự chết, sức mạnh của lỗi lầm hay đức hạnh thì lớn hơn. Thế nên, cần thiết phải biết bất kỳ tư tưởng nào sanh khởi, như là sợ hãi hay khủng khiếp và đưa chúng vào sử dụng trên con đường đức hạnh.
* Thứ ba, khi một phần phiền não lớn lao hay một tư tưởng quấy động sanh khởi, nếu con thất bại không thể dùng nó như con đường. Nó có thể bằng giá của cả đời con, hay làm cho con hư hoại các lời nguyện, ngăn chặn định của con và làm vặn vẹo con đường chân chính. Thế nên, hãy nhận ra nó và đem nó vào con đường.
* Thứ tư, vào lúc tánh Giác bất nhị bổn nguyên hiện khởi và tâm con hợp nhất như là yếu tính của vô niệm, hãy dùng cái này vào con đường của phương tiện. Khi trong trạng tháp áp dụng các điểm then chốt vào trong khuôn khổ của các kinh nghiệm này, hãy thực hành một thời gian dài không xao lãng. Vào lúc ấy, các nguyện vọng và các mối liên kết với nhân quả được hình thành. Đây là một điểm cốt yếu. Thế nên, điều quan trọng là hình thành quyết định. Trộn lẫn các nguyện vọng và các mối liên kết nhân quả, với bất kỳ loại ý nghĩ, ý niệm bình thường nào khác là không thích hợp. Vì cái người tạo ra (một nguyện vọng) là một tư tưởng ý niệm danh tướng, cũng giống như lỗi lầm khi dùng một món thuốc tính hàn để chữa một bệnh hàn.
* Thứ năm, khi cái chết đến con sẽ hoàn toàn dưới sự kiểm soát năng lực của "nghiệp liên kết" riêng mình. Bởi thế, phải quyết định tạo ra những mắt xích nhân quả tốt. Hãy để cho những việc xấu bị lãng quên và nhớ lại tất cả các hành động đức hạnh. Chú tâm nhất niệm vào sự thực hành riêng, mà con đã từng vững chắc trong đó và trong mỗi khoảnh khắc, hãy thoát khỏi kinh nghiệm lầm lạc. Tóm lại, trong thời gian ấy cần yếu là tạo ra chuỗi mắt xích nhân quả thiện.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố, thưa Đại sư! Xin Ngày dạy cho các điểm then chốt của các trạng thái trung ấm.
Padmasambhava trả lời: Nghe đây Tsogyal! Đối với Bardo, thời gian từ khi chết đến lúc tái sinh, được gọi là Bardo của sanh và chết. Nó gồm ba điểm: tốt nhất là đạt đến giác ngộ trước khi kinh nghiệm bất kỳ Bardo nào. Tốt tiếp theo là đạt đến giác ngộ trong trạng thái Bardo. Thứ ba là làm sao tái sanh.
- Điểm thứ nhất có bốn phần: Các nguyên tố tan biến như thế nào, các tư tưởng ngừng lại thế nào, trí huệ không ý niệm xuất hiện thế nào và Phật tánh được đạt đến bằng cách nhận ra bản tánh của mình như thế nào.
* Thứ nhất, khi nguyên tố đất tan biến vào trong nguyên tố nước, nút thắt kinh mạch ở rốn giải tan, thì prana của nguyên tố đất bị khủng hoảng, thân cảm thấy nặng nề, ý thức nhạt đi và kinh nghiệm giống như một ảo ảnh xuất hiện.
* Tiếp đó, khi nước tan vào trong lửa, nút thắt kinh mạch ở tim giải tan, prana của nước bị khủng hoảng, miệng và mũi khô, ý thức dừng lại và một kinh nghiệm như khói khởi sanh.
* Thứ ba, khi lửa tan biến vào gió, nút thắt kinh mạch ở yết hầu giải tan, prana của lửa bị khủng hoảng, thân nhiệt yếu dần, tri giác chập chờn và một kinh nghiệm giống như đom đóm khởi lên.
* Thứ tư, khi gió tan biến vào ý thức, nút thắt kinh mạch ở chỗ bí mật giải tan, prana của gió bị khủng hoảng, hơi thở ngừng qua lỗ mũi, ý thức đảo lộn nhẹ và một xuất hiện nhẹ của ánh sáng hiện ra.
- Các tư tưởng dừng lại thế nào: ở phần dưới chót của kinh mạch trung ương là tinh tuý người mẹ của chúng ta trong hình tướng chữ A. Khi sức mạnh kinh mạch phải yếu đi, tinh chất này đi lên, dấu hiệu là sự xuất hiện màu đỏ. Vào lúc này, các trạng thái tư tưởng của tham dừng lại.
ở trên cùng của kinh mạch trung ương là tinh chất từ người cha chúng ta trong hình tượng chữ Hang. Khi sức mạnh của kinh mạch trái yếu đi, tinh chất này đi xuống và màu trắng xuất hiện. Vào lúc này, các trạng thái tư tưởng của sân dừng lại.
Tiếp theo đó, nguyên tố gió tràn khắp trên đỉnh đầu bị khủng hoảng và màu đen xuất hiện. Vào lúc này, các trạng thái tư tưởng của si dừng lại.
Khi ba độc dừng lại theo cách ấy, kiêu mạn và ganh ghét cũng tự động dừng lại, bởi vì ba độc đã tan biến vào ba kinh mạch. Sau đó hơi thở bên ngoài dừng.
Thế nào trí huệ không ý niệm xuất hiện: đến lúc này, hơi thở bên ngoài đã ngừng, nhưng hơi thở bên trong chưa ngưng. Mặt trời đi lên và mặt trăng đi xuống gặp nhau, tâm thức thuộc về prana đi vào trong kinh mạch trung ương. Vì ba cái này ở lại trong kinh mạch trung ương, vì các tư tưởng đã dừng trong một lúc ngắn, tánh Giác không ý niệm, tâm Pháp thân của chư Phật, xuất hiện trong khoảng một bữa ăn.
Thế nào Phật tánh đạt được bằng cách nhận ra trí huệ không ý niệm: do năng lực đã quen dần với sự nhận biết này và bởi năng lực đắc định qua các lời dạy miệng. Con sẽ nhận ra trí huệ câu sanh tự hữu này và đạt Phật tánh, kết hợp hai phương diện Mẹ và Con của Pháp thân. Theo đó trí giác vượt qua nắp mở của Brahma và đi vào Pháp giới.
Đây là lời dạy cho người có khả năng cao nhất để đạt đến Phật tánh không qua bardo.
Lời dạy cho người có khả năng vừa để đạt đến giác ngộ trong trạng thái bardo, có bốn điểm. Cách thức các nguyên tố tan biến và các trạng thái của tư tưởng dừng lại thì giống như ở trên.
- Về điểm thứ ba, thế nào pháp tánh biểu lộ trong bardo: nếu người ta không nhận ra trạng thái không ý niệm của Pháp thân, như trường hợp người có khả năng cao tột, thì trí tỉnh giác trú trong trung tâm trái tim, đi vào con đường của kinh mạch màu lụa trắng. Xảy ra ở bên ngoài, tâm và vật chất lìa nhau con rơi vào trạng thái không thức giấc trong bảy ngày(1). Tỉnh dậy từ sự hôn mê này, pháp tánh xuất hiện trong năm ngày, trong hình dạng các âm thanh, màu sắc, ánh sáng và cảnh giới.[1]
Âm thanh là âm thanh tự nhiên của nguyên tố lửa, bao la và mãnh liệt. Nó gầm như sét phân chia giữa hai mùa hè và mùa đông. Sự sáng rỡ của tánh Giác biểu lộ trong các màu sắc trong trẻo và sống động. Các tia sáng chiếu từ các màu sắc thì chói chang, như một ảo ảnh trên các cánh đồng mùa thu.
- Thứ tư, thế nào đạt được Phật tánh bằng cách nhận ra khuôn mặt bổn nhiên của con: do sức mạnh của tu hành điều đã được trực chỉ, các biểu lộ này cảu âm thanh, màu sắc và ánh sáng sẽ xuất hiện như là trí tuệ câu sanh tự hữu và con sẽ đạt đến Phật tánh.
Các cá nhân khác biệt nhau trong sự tu hành và quen thuộc của họ. Đối với thiền giả tu trong giai đoạn thành tựu của Yoga hoá thần bổn tôn, các biểu lộ này của âm thanh, màu sắc và ánh sáng sẽ mở bày như sự biểu lộ tự nhiên của mạn đà la của hoá thần và người ấy đạt đến Phật tánh như là Báo thân.
Thiền giả đã chứng ngộ sự giả ảo của các hình tướng sẽ thấu hiểu rằng, các biểu lộ ấy của âm thanh, màu sắc, ánh sáng là giống như một giấc mộng hay một ảo tưởng huyễn hoá và sẽ đạt được Phật tánh như Hoá thân.
Thiền giả đã chứng ngộ rằng, mọi hiện tượng sanh tử và Niết bàn là kinh nghiệm tự biến hiện của cá nhân (rang nang) sẽ hiểu rằng, các biểu lộ này của âm thanh, màu sắc, ánh sáng là tự khởi vốn tự giải thoát và sẽ đạt được Phật tánh như là Thân Yếu Tính.
Bởi thế, con phải đi qua bardo bằng bất cứ pháp môn tu hành nào con đã có kinh nghiệm và chứng ngộ trong đó.
Cuối cùng, thế nào để tái sinh có năm điểm. Cách thế các nguyên tố tan biến và các trạng thái tư tưởng dừng lại cũng giống như ở trước.
Thứ ba, thân do thức dần dần được tạo thành qua tám duyên sanh(1): vô minh là không nhận ra được rằng ánh sáng là sự tự biến hiện của chính con. Hành (sự tạo lập) xảy ra, bởi sức mạnh của hành, khi năm prana gom lại và tạo thành sự hiện hữu của sanh tử. Từ hành, thức trở nên rõ ràng hơn và sự bám trụ vào một đối tượng xảy ra.
Tiếp theo danh và tướng của trạng thái bardo sanh ra(2). Thức trở nên nhanh nhạy, tạo thành các căn (giác quan). Xúc là khi các giác quan gặp một đối tượng. Thọ là cảm giác sướng khổ. ái là khi do đó con khởi lên thích hay ghét. Như thế tám yếu tố này tạo thành thân do thức sanh.[1]
Thứ tư, thế nào kinh nghiệm bardo xảy ra: các tướng của thói quen và nghiệp biểu lộ; như thế con kinh nghiệm sự du hành đến quê nhà đời trước và liên hệ với mọi người thân quen bằng cái thức. Thức ăn và nơi ở của con thì bất định, và thân thể bằng thức sống nhờ đồ cúng được đốt. Ngoài việc có thể vào tử cung của người mẹ đời kế tiếp và đi đến toà Kim Cương, con có thể di chuyển không chướng ngại. Thường trực sợ hãi, bị đe doạ và khủng khiếp, con kinh nghiệm các cái thấy về quỷ ăn thịt, các thú dữ tợn, mưa bão dữ dội và bão tuyết. Con tìm sự ẩn núp, trốn lánh bất cứ chỗ nào. Các giác quan thông tỏ và khả năng của tâm thức thì toàn vẹn. Con có thiên nhãn và có thể nhìn thấy các chúng sanh khác của cảnh giới bardo.
Thứ năm thế nào tái sanh trở lại: sau khi sự tỏ rạng nhanh chóng của ánh sáng căn bản đã lắng xuống, con kinh nghiệm năm con đường ánh sáng thông thường(1). Vô minh câu sanh, làm cho không thể nhận ra tánh Giác sáng tỏ này là khuôn mặt xưa nay của con. Vô minh thuộc về ý niệm là ý niệm hoá tánh sáng tỏ, quang minh này thành một cái gì khác. Trụ vào các tướng của cái khác đó, con tái sanh vào sáu loại chúng sanh, như một con hươu mắc trong bẫy hay con ong kẹt trong một bông hoa.
Bám trụ vào ánh sáng trắng, con sẽ sinh lại giữa các chúng sanh của địa ngục. Bám trụ vào ánh sáng đỏ, con sẽ sanh lại làm ngạ quỷ. Đi vào trong ánh sáng màu đen thì sanh làm thú vật. Đi vào ánh sáng màu vàng dẫn đến tái sanh làm một con người. Và bám trụ vào ánh sáng lục dẫn đến tái sanh làm thiên hay Atula. Vào lúc ấy con phải nhớ đến sự đau khổ của sáu loài chúng sah và không trụ vào bất kỳ loại ánh sáng nào như vậy.
Thức trong bardo dễ dàng đổi hướng. Thế nên, nếu con có thể ở trong sự tỉnh giác chánh niệm, và phát khởi sự mong mỏi sâu xa đối với một cõi Phật như là cõi Tịnh Độ con sẽ sinh về nơi ấy không một chút nghi ngờ....

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét