Kho
báu ngọc quý để xua tan các chướng ngại
Các
trả lời cho các câu hỏi của Yshe Tsogyal
Ở nơi ẩn cư Samye Chymphu, công chúa Tsogyal xứ Kharchen,
thỉnh cầu Đạo sứ Padmakara: Xin chiếu cố, Đại sư! Dù Ngài đã chỉ cho một cô gái
kém thông minh như con rằng: Tất cả thế giới và chúng sanh là Pháp thân. Vậy mà
sự tu hành pháp của con vẫn lạc vào hiểu biết lý thuyết ý niệm do liên hệ tương
tục với tập khí của tri giác sai lầm. Con xin Ngài từ bi ban cho con sự chỉ
dạy, cho phép con nối kết bất kỳ điều gì con làm với bản tánh bổn nhiên của
Pháp tánh!
Padmasambhava trả lời: Hãy nghe đây Tsogyal! Con phải có ba
điểm then chốt khi thực hành giáo lý Mật thừa của Đại thừa: Điểm then chốt của
thân, tư thế; điểm then chốt của mắt, cái nhìn; và điểm then chốt của tâm: cách
thức an trụ.
Trước hết, trong một nơi kín đáo, ngồi tư thế khoanh chân
kiết già trên một toạ cụ thoả mái, để hai tay ngang nhau, dựng thẳng xương
sống. Nếu thân con duy trì trong trạng thái bổn nguyên của nó, thiền định xảy
ra đến tự nhiên. Không thực hiện tư thế thân thể đúng, thiền định sẽ không xảy
ra.
Tiếp theo, đối với cái nhìn, chớ nhắm mắt, chớp mắt hay nhìn
qua bên. Hãy nhìn thẳng không lay động vào trước mặt. Khi cái thấy của mắt và
tâm thức chia nhau một bản tánh đơn nhất, bấy giờ thiền định xảy ra tự nhiên.
Không có cái nhìn đúng thiền định không xảy ra.
Điểm then chốt của tâm là thế này: Chớ để trạng thái bổn
nhiên của tâm bình thường theo đuổi các dạng thức quen thuộc ở quá khứ. Chớ để
nó nhìn về các hoạt động phiền não ở tương lai. Và chớ để nó tạo tác thứ gì
bằng danh tướng, ý niệm trong trạng thái hiện tại của con. Qua sự an trụ tỉnh
thức trong cách thế tự nhiên của nó, thiền định xảy ra tự nhiên. Nếu con phóng
tưởng hay tán tâm, thiền định không xảy ra.
Khi trong cách này, con để cho ba cửa ở yên trong trạng thái
tự nhiên của chúng, mọi vọng niệm thô và tế lắng xuống, tâm con yên ổn thả lỏng
trong chính nó (đây gọi là Samatha, Chỉ). Khi tâm con không chướng ngại,
vô trụ, và trần trụi trong sự tỉnh giác tự nhiên (đây gọi là Vipashyana, Quán)(1).
Khi cả hai trong một khoảnh khắc thức giác, an trụ trong sáng một cách sống động
như là một thực thể, không thể phân chia, đó gọi là Chỉ không lìa Quán. Hiểu
biết theo danh tướng, ý niệm là khi con đặt ý thức như một đối tượng. Kinh
nghiệm là khi con khám phá tính vô trụ của nó và chứng ngộ xảy ra khi các trạng
thái này của tâm an trụ trong sáng một cách sống động, như là yếu tính sự thiền
định của con. Cái ấy không có một khác biệt nào với sự chứng ngộ của chư Phật
ba đời. Nó không phải là một sự tạo tác đặt căn bản trên lời dạy sâu xa của vị
thầy, cũng không phải là kết quả của trí thông minh sắc bén của một đệ tử. Đó
gọi là đạt đến trạng thái bổn nhiên của nền tảng.
Khi tham thiền như thế, ba kinh nghiệm về lạc, trong sáng và
vô niệm sẽ hiện bày.
Tâm thức tự do khỏi tưởng gọi là vô niệm và có ba loại:
"Không có niệm thiện" nghĩa là tự do khỏi sự bám níu vào người tham thiền và đối tượng được tham thiền. "Không có niệm ác" là sự cắt đứt
dòng tư tưởng thô và tế. "Không có niệm trung tính" là sự nhận ra
khuôn mặt bổn nhiên của tánh Giác như là không chỗ trụ.[1]
Trong trạng thái vô niệm này, sự trong sáng là sự sáng rỡ
không bị che chướng và trần trụi của tánh Giác. Có ba loại trong sáng:
"Trong sáng tự nhiên" là trạng thái tự do khỏi một đối
tượng."Trong sáng bổn nguyên" không xuất hiện một thời gian nhất
thời. "Trong sáng bổn nhiên" thì không do ai tạo ra được.
[1]
Có bốn loại lạc: "Phúc lạc cảm nhận" là tự do khỏi
các điều kiện đối nghịch của không hoà điệu. "Lạc không có tưởng" là
tự do khỏi sự đau khổ của ý niệm, danh tướng. "Lạc bất nhị" là tự do
khỏi sự bám níu, sự trụ tướng nhị nguyên. "Lạc vô điều kiện" là tự do
khỏi nguyên nhân và điều kiện.
Khi các loại kinh nghiệm này sanh khởi, con cần ba thứ xả
ly: "Xả ly lạc" là giống như một người điên. "Xả ly sự trong
sáng" là giống như giấc mơ của một trẻ nhỏ. "Xả ly vô niệm" là
giống như một thiền giả đã hoàn thành sự tu hành thiền định của mình. Khi con
có các thứ này, con thoát khỏi các khuyết điểm của thiền định.
Nếu con bị hấp dẫn và bám níu vào ba kinh nghiệm này, con
lạc vào ba cõi. Khi bám níu vào lạc, con sẽ lạc vào Dục giới. Khi bám vào sự
trong sáng, con sẽ lạc vào Sắc giới. Khi bám vào vô niệm, con sẽ lạc vào Vô sắc
giới.
Dầu cho con nghĩ rằng: Con không dính cũng không bám vào
chúng, con cũng còn một sự dính chấp vi tế bên trong. Để cắt đứt cái bẫy này,
có chín trạng thái định liên tiếp nhau, khởi đầu bằng bốn thiền để xa lìa tư
tưởng tham ái. "Sơ thiền" là thoát khỏi ý tưởng về người tri giác và
cái được tri giác, nhưng vẫn còn nằm trong sự phân biệt một đối tượng và hành
động tham thiền. "Nhị thiền" là thoát khỏi ý tưởng và phân biệt,
trong khi còn trụ vào sự thưởng thức mùi vị vui sướng của định. "Tam
thiền" là đạt đến tâm không động, nhưng còn hơi thở vào và hơi thở ra.
Định của "Tứ thiền" hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng ý niệm với sự tri
giác trong sáng, không bị che chướng.
Bốn thiền vô sắc tẩy trừ tư tưởng ý niệm về sắc giới. Trụ
vào ý tưởng "tất cả hiện tượng đều như hư không", con lạc vào Không
vô biên xứ. Trụ vào ý tưởng "thức là vô cùng và không phương hướng",
con lạc vào Thức vô biên xứ. Trụ vào ý tưởng "Cái biết trong sáng là không
hiện diện, không vắng mặt và không thể tạo thành một đối tượng của tri
thức", con lạc vào Không hiện diện cũng không vắng mặt (Vô sở hữu xứ). Trụ
vào ý tưởng "Tâm này không nhờ vào một thực thể nào; nó là vô hữu và trống
không", con lạc vào cõi tri giác về Không có gì tất cả. Các trạng thái này
còn có sự nhiễm ô vi tế của ý niệm danh tướng, sự hấp dẫn thuộc về tâm thức và
các kinh nghiệm của tâm nhị nguyên.
Diệt thọ tưởng định xa lìa các ý niệm về các trạng thái này.
Sự dừng bặt thuộc về phân tích là sự dừng dứt của sáu thức đi vào với các đối
tượng của chúng, nó gồm cả sự cắt đứt hoạt động của hơi thở và tâm nhị nguyên.
Sự dừng bặt thuộc về không phân tích là đi đến tự tánh của con. Đó là sự thản
nhiên tối hậu.
Trong chín cấp bậc định này, bốn trạng thái thiền là
"Chỉ sanh ra Quán". Như thế, định của bốn thiền này là hoà hợp với tự
tánh, và là cái trổi vượt nhất trong mọi loại định thuộc về thế gian.
Bốn
thiền vô sắc là các bẫy của định. Diệt thọ tưởng định là cái định bình an của
bậc Thanh văn.
Bằng sự hiểu biết những trạng thái này, con có thể phân biệt
các loại định khác nhau, xoá tan các chướng ngại trong thực hành thiền định và
không đi lạc.
Năm con đường bao gồm trong ba. Cắt đứt các bẫy này và thực
hành một thiền định không khuyết điểm, con an trụ thanh tĩnh và sống động trong
phúc lạc, trong sáng và vô niệm suốt trạng thái thiền định(1). Trong trạng thái
sau thiền-định, các hình tướng khởi lên không ngăn chướng, đều vô tự tánh như
một giấc mộng hay ảo huyễn. Con biết được bản tánh của nhân và quả, làm đầy
công đức đến mép, đạt được "hơi ấm của định" và như thế hoàn thành
"con đường tích luỹ".
(1)
Rõ ràng, có một hay hai câu thiếu trong nguyên bản. Phần trong ngoặc là của tôi
(EPK).
Thực hành như thế một thời gian dài, con thấy được một cách
hiện thực, bản tánh vô trụ và tự chiếu hiện diện nơi con. Nhận ra bản lai diện
mục của con là con đường của cái thấy. Kinh nghiệm các tướng, trí huệ tánh
Không là vô sở trụ và tự thông tỏ, tức là con thấy trực tiếp bản tánh bổn nhiên
không tuỳ thuộc điều kiện. Sự ngăn che của phiền não bị phá huỷ tận gốc rễ.
Chứng ngộ rằng: Nhân và quả đều trống không, sanh tử không có hiện hữu chắc
thật. Đây gọi là địa đầu tiên, Hoan Hỷ địa. Trạng thái thiền định không lìa rời
Phật tánh và mọi sự sau-thiền-định sanh khởi như ảo huyễn.[1]
Quen dần với trạng thái này và hộ trì nó một cách vững chắc,
mọi hiện tượng trở nên bất nhị. Hãy nhận biết chúng như là tự tâm hiện, các
hình tướng và tâm hoà trộn thành một. Khi tánh Không sanh khởi như nhân và quả,
con chứng ngộ duyên sanh. Suốt trạng thái thiền định mọi hiện tượng là không
chỗ trụ và hiện diện như tính chất của tánh Giác. Sự hiện diện nhẹ nhàng của
các hình tướng bên ngoài trong thời gian sau thiền-định là con đường của sự tu
tập.
Duy trì điều ấy một thời gian dài, con chứng ngộ rằng sanh
tử và Niết bàn là bất nhị. Vượt khỏi sanh tử và diệt, là vô trụ xứ và tự thông
tỏ không trộn lẫn nhiễm ô, rốt ráo hoàn thiện. Sự che chướng trí huệ hoàn toàn
biến mất, vào khoảnh khắc tất cả mọi sự hiện ra như tánh Giác bổn nguyên là con
đường thành tựu, tức là trạng thái Phật tánh.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố, thưa Đại sư! Đây là tánh bổn
nhiên của sự vật, nhưng làm thế nào người ta ứng dụng, thi hành cho đến khi đạt
đến an định?
Padmasambhava trả lời: "Nghe đây Tsogyal! Có ba loại cư
xử. Trước hết, để thiết lập con đường có cách cư xử chung, tổng quát. Tiếp
theo, để làm phát sanh sự nâng cấp, có cách cư xử bí mật của kỷ luật Du già.
Cuối cùng, có cách cư xử mật tối hậu rốt ráo của tánh Như chân thật.
Cư xử thì rất quan trọng, vì phần lớn đời sống xảy ra trong
những hoạt động hàng ngày sau thiền-định. Con có thể hiểu một cách trí thức một
cái thấy cao sâu, nhưng trừ phi con hành động thuận theo ý nghĩa của nó, thì
con sẽ lạc khỏi con đường. Con có thể đạt được một trạng thái thiền định tuyệt
hảo, nhưng trừ phi con duy trì được nó suốt các hoạt động sau thiền-định, nó sẽ
nhạt mất. Bởi thế, phải hiểu thấu điểm cốt yếu nhân-quả: Không có hạnh xấu và
hoàn thành ngay cả các hành động đức hạnh nhỏ nhất. Đó là con đường đúng, tinh
tuý của giáo lý Đức Phật, điểm cốt yếu của trí huệ.
Nếu đã có một thân người, con muốn thực hành pháp thiêng
liêng một cách đúng đắn. Chớ để cho ba cửa của con lạc vào sự bình thường thế
tục, dù chỉ một khoảnh khắc. Trong sự thực hành ban ngày hãy buông thả cho tâm thức
con không tạo tác và để cho kinh nghiệm của sáu giác quan được tự do thư thả,
như một giấc mộng hay trò huyễn hoá. Ban đêm, hoà trộn giấc ngủ sâu với pháp
tánh trong một trạng thái vô niệm, thoát khỏi sự phóng xuất hay tan biến của tư
tưởng. Hãy tịnh hoá kinh nghiệm mê lầm của trạng thái mộng, dẫn nó về đường
chánh. Thế là nghĩa là tu hành tình thương đại bi và Bồ đề tâm, trong sự lần
hồi quen thuộc với các giai đoạn phát triển và thành tựu.[1]
Sáng và chiều, cử hành sự tịnh hoá bảy phần(1), chớ xao lãng
các dâng cúng Torma hàng ngày và các thứ. Sám hối các nghiệp xấu với thần chú
một trăm âm. Hãy cẩn thận với điểm cốt yếu là nhân quả. Suy nghĩ trở đi trở lại
[1]về sự khó khăn có được tự do và của cải, về cái chết, sự vô thường và về
những lỗi lầm khuyết điểm của sanh tử.[1] của tất
cả chúng sanh.
Hãy tu hành Bồ đề tâm. Tu hành giai đoạn phát triển, đến mức
độ mà mọi cái gì xuất hiện và có mặt là mạn đà la của hoá thần. Đối với giai
đoạn thành tựu, hãy an trụ trong trạng thái bất nhị, nó là các hình tướng không
có tự tánh như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước. Lúc chấm dứt, hãy hồi
hướng công đức.
Thực hành theo cách này, con hoà điệu với các thừa tổng
quát, con tiến triển trên con đường đúng và con đã thiết lập nền tảng cho con
đường của Yoga.
Thực hành cư xử bí mật của kỷ luật Yoga. Sau khi con đã
thiết lập nền tảng của con đường và đã đạt được kinh nghiệm, thấu hiểu tin vào
cái thấy và trạng thái chân thật. Cư xử bí mật nâng cấp con đường này và cắt
đứt tư tưởng ý niệm. Nó có thể theo đuổi bởi hành giả có sự quen thuộc nhiều và
an định vững chắc trong thực hành.
Về sự thực hành đúng của Đại thừa, có cái thấy của sự thấu
hiểu rằng mọi đối tượng là không thật. Đối với Mật thừa, có cái thấy về vòng
hoá thân, giai đoạn phát triển và tính bất nhị vượt khỏi các bên,tức
là giai đoạn thành tựu.
Khi con nhận thấy mọi chúng sanh là cha mẹ mình, con làm
sanh khởi con đường qua sự hành tâm con trong Bồ đề tâm. Để cắt đứt sự chấp ngã
và tin vào ma quỷ, hãy đến một nơi dễ sợ và cắm trại trong một chỗ đáng sợ
nhất. Hãy bắt đầu với việc quy y Tam bảo, phát triển Bồ đề tâm và cầu xin Guru
của mình. Rồi sau một hồi lâu thành khẩn quán tưởng từ bi và Bồ đề tâm đối với
tất cả chúng sanh nhiều như hư không, mà đầu hết là quỷ ma của vùng ấy. ở lại
và đi ngủ trong Bồ đề tâm tối hậu, trạng thái đại lạc không bị ngăn ngại, vượt
khỏi sanh, trụ, diệt trong đó chư thiên và quỷ ma là bất nhị. Khi con cảm thấy
sợ hãi, tập trung và chú tâm vào sự suy nghĩ này: "Sự sợ hãi này khởi ra
từ sự tin vào ma quỷ, nó nảy ra từ sự không tin rằng mọi chúng sanh là cha mẹ
mình". Bấy giờ, sự phóng xuất tư tưởng ấy xuất hiện như là ma quỷ.
"Làm thế nào mà Bồ đề tâm của ta, nó chỉ là những lời vô vị và các ý niệm
tri thức, thành tựu được chân nghĩa?". Chú tâm như thế, trau dồi đại bi và
Bồ đề tâm thành thật, dâng tặng thân con chẳng màng chi cho mọi vị thần và quỷ
ma, đầu hết là quỷ ma của vùng ấy. Nói rằng: "Hãy lấy thịt xương, máu
huyết của ta, như các người muốn!" để tâm con an định trong Bồ đề tâm.
Cùng một cách ấy, khi con có một ý nghĩ về thần hay quỷ và
Bồ đề tâm của con dao động, hãy nghĩ: "Đây là một phóng ảnh do sự tin vào
quỷ ma!" và đem cho họ thân con chẳng màng, rồi ở yên trong sự bình thản.
Nếu một hồn ma thật sự xuất hiện, hãy nhảy thẳng vào miệng nó hay vào lòng nó
và hoàn toàn bỏ đi ý niệm yêu quý thân con. Trau dồi tâm bi và hồi hướng công
đức.
Khi sự tin vào quỷ ma bị cắt đứt, các hiện hình ma quái và
phô diễn ảo ảnh lắng xuống, quỷ ma của vùng ấy rơi vào sự kiểm soát của con. Sự
lắng yên của tư tưởng và sự thuần hoá quỷ ma xảy ra đồng thời.
Một khi con hiểu rằng mọi chúng sanh là cha mẹ mình, lúc ấy
con không thể tin vào quỷ ma; còn có tin vào quỷ ma, ấy là con chưa tu hành đầy
đủ.
Thứ hai, cắt đứt(1), hãy nhận biết rằng mọi đối tượng là
không thực. Để cắt đứt sự tin vào quỷ ma và sự trụ vào ảnh hưởng của chúng như
là thật có. Hãy đi đến nơi khủng khiếp nhất để làm mạnh thêm cái thấy về các
hình tướng không thật của con. Quy y, phát triển Bồ đề tâm và cầu nguyện. Khi
nhận ra rằng mọi hình tướng đều không thật, mọi ý niệm đều là vọng tưởng, mọi
sự đều trống không và cái thấy biết của con hiện giờ cũng giống như một giấc
mộng hay một ảo giác huyễn hoá. Lúc ấy, hãy đi ngủ trong trạng thái Không vô
quái ngại, trong đó rốt ráo không có gì hiện hữu.[1]
Khi con cảm thấy sợ hay khủng khiếp, hãy tập trung tâm con,
nghĩ như thế này: "Không hiểu được rằng sợ hãi và khủng khiếp đều giống
như một giấc mộng và ảo giác huyễn hoá, ta tin vào ma quỷ. Bây giờ, sự phóng
tưởng này khởi lên để chỉ cho ta thấy rằng, cái thấy về như huyễn của ta chỉ là
sự hiểu biết ngoài mặt ý thức. Sự hiểu biết ý thức ấy sẽ không thành tựu thật
nghĩa!". Tập trung và chú tâm vào ý nghĩ này, ở yên thoải mái trong trạng
thái tất cả đều không thật và huyễn ảo.
Con phải nhận biết bản chất không thật của sự phóng tưởng
niềm tin của quỷ ma, ngay lúc tư tưởng hay trò huyễn thuật xảy ra. Quyết định
rằng nó không có thực tại nào, mà thật sự chỉ giống như huyễn hoá. Nếu trong
thực tế một hồn ma xuất hiện, hãy khẳng định rằng nó không thật và nhảy thẳng
vào lòng nó. Ngọn gió xoáy của sự hiện hình ma quái sẽ biến mất và con đi qua
nó không chướng ngại. Ngay khi con cắt đứt được sự tin vào ma quái, sự biến
hiện huyễn ảo tự nhiên lắng yên. Vượt qua được tư tưởng của con và chấm dứt quỷ
ma xảy ra đồng thời.
Thứ ba, để cắt đứt, tu hành một "giai đoạn phát
triển" vững chắc. Nhờ đó kinh nghiệm của con biểu lộ như là hình tướng của
hoá thần.
Để
nâng cao giai đoạn phát triển của con, cắt đứt sự tin ma quỷ và sự bám chấp nhị
nguyên vào một thế giới chúng sanh, hãy đi đến một nơi đáng sợ. Một khi đã phát
khởi sự quy y ở đó, phát triển Bồ đề tâm và cầu nguyện. Quán tưởng quang cảnh
chung quanh như là cung điện cõi trời và mọi chúng sanh, đặc biệt là hồn linh
của vùng ấy, như là hó thần bổn tôn. Trì tụng thần chú tinh tuý làm bén thêm
chánh niệm tỉnh thức, làm sáng tâm con và thiền định một thời gian dài. Ôm trọn
tánh Không tối hậu với điểm cốt yếu. Đi ngủ trong trạng thái, trong đó mọi thứ
dù có xuất hiện cũng không tự thể. Khi một tư tưởng sợ hãi hay khủng khiếp nổi
lên, gom tâm vào nhất niệm và suy nghĩ thế này: "Không nhận ra hình tướng
đáng sợ và làm khiếp hãi như là hoá thần bổn tôn, tôi tạo ra sự tin vào quỷ ma.
Bây giờ sự phóng ảnh của nó xuất hiện như một biến hiện ảo hoá. Giai đoạn phát
triển của tôi chỉ là danh từ và hiểu biết nơi bề mặt ý thức.
Làm thế nào nó sẽ đưa tôi đến giai đoạn thành tựu? Tâm nhất
niệm, bỏ đi sự tham trước thân thể và đem nó cho đi như một món quà của một
buổi tiệc. Quán tưởng sống động rằng tất cả cái gì xuất hiện và hiện hữu là hoá
thần bổn tôn.
Dâng cúng thân thể con như là cam lồ và cho tất cả chúng
sanh, cầm đầu là các ma quỷ quấy phá. An trụ tự do trong trạng thái bất nhị
không ngăn ngại.
Sự tin vào ma quỷ khởi lên, vì khi hình tướng ma quái hay
biến hiện huyễn hoặc xảy ra, con không thấu rõ hình tướng và mạn đà la của hoá
thần. Hãy nghĩ rằng: "Đây đúng là một phóng tưởng!" và nhớ đến bổn
tôn.
Đạt được vài thành tựu là do thấu hiểu được rằng con và ma
quỷ đều cùng một bản tánh như hoá thần. Thế nên, hãy nghĩ rằng: "Gặp được
bổn tôn thì thích thú biết bao!". Hãy ôm choàng lấy ma quỷ bằng cách nhảy
vào lòng nó, đi vào trong miệng nó và trộn lẫn tâm các con một cách không phân
biệt. Trình diện thân xác con như là một quà biếu cho buổi tiệc. Qua việc làm
này, con sẽ hiểu rằng các tướng là hoá thần và như thế tất cả các ý niệm dừng
bặt, trò biến hiện tự nhiên lắng xuống và hồn linh của nơi chốn ấy rơi vào sự
kiểm soát của con!
Thứ tư, để cắt đứt, hãy hiểu bản tánh của bất nhị nhờ vào
một cái thấy vững chắc của giai đoạn thành tựu.
Dùng sự sợ hãi, sự tin vào ma quỷ để nâng cao tính chất bất
nhị của giai đoạn thành tựu. Để làm thế, hãy làm những điều sơ khởi và an trụ
thư thả trong trạng thái bất nhị, trong đó thân và tâm là không hai, tướng và
tâm là không hai, ta và người là không hai, bạn và thủ là không hai, chư thiên
và ma quỷ là không hai. Tóm lại, an trụ trong trạng thái nơi đó không có bất kỳ
hiện tượng nhị nguyên nào. Duy trì sự liên tục này không lơi lỏng.
Nên sự biến hiện ảo hoá hay tư tưởng về ma quỷ xảy ra, khi
thực hành như thế này, hãy chú tâm vào tính bất nhị, nghĩ rằng: "Sự phóng
ảnh này, sinh từ nghi ngờ, là do bởi tâm ta không an định nhất tâm trong tánh
bất nhị!". Ngay khi sự tin vào ma quỷ khởi sinh, yên nghĩ tự do trong tánh
bất nhị. Nếu một quỷ ma thực sự xuất hiện, chú tâm một cách nhất niệm và nghĩ
rằng: "Tuyệt vời thay có được cơ hội để tu hành trong bản tánh bất nhị như
là sự làm mạnh thêm cái thấy!" nhảy vào lòng ma quỷ, và con sẽ đi qua nó
không chướng ngại trong tánh Không bất nhị và không nền tảng. Cuối cùng ma quỷ
không có một thực thể nào.
Theo cách này, nghĩa của tánh bất nhị hiện rõ bên trong con.
Tư tưởng nhị nguyên tin vào ma quỷ bị cắt đứt và sự biến hiện ảo giác bên ngoài
lắng xuống. Khi con chứng ngộ tánh bất nhị, con cũng có được sự chế ngự đối với
sức mạnh xấu ác và ngăn chặn quỷ ma. Điều này nhờ vào tánh bất nhị và sự duyên
sanh lẫn nhau giữa tướng và tâm.
Kết quả là khi con còn hiện hữu thì các quỷ ma còn hiện hữu;
khi con bình an thì các quỷ ma bình an; khi con giải thoát, các quỷ ma được
giải thoát; khi con được thuần hoá, các quỷ ma cũng thuần hoá. Quỷ ma là quỷ ma
của chính con và cắt đứt nó làm cho con an bình. Thế nên, chính là một sự nâng
cao, làm mạnh thêm lớn lao khi giáp mặt với một nơi chốn đáng sợ, hơn là hành
thiền định trong ba năm.
Cách cư xử bí mật này không chỉ nhắm đến tư tưởng về quỷ ma,
mà còn để cắt đứt các bệnh dịch truyền nhiễm như là: bệnh cùi và các cảm giác
sợ hãi, dị ứng ghê tởm, nhút nhát, hèn nhát, bối rối vv... Tóm tắt, bất kể loại
tư tưởng nào khởi ra, hãy cắt đứt nó như ở trên.
Cuối cùng, cư xử tối hậu của tánh Chân Như là thoát khỏi sự
nhị nguyên của chư thiên và ma quỷ. Tự do khỏi sự nhị nguyên của sạch và dơ,
thì nút khoá của sự trụ tướng nhị nguyên được cởi mở. Tự do khỏi sự thúc đẩy
của sự muốn đừng có, muốn trau dồi hay bám níu, thì tất cả ý niệm về sanh tử và
Niết bàn hoàn toàn tiêu tan mất trong tánh Giác bất nhị rộng rãi vô biên, và
con sẽ an trụ trần trụi, độc diện như là nhất thể bất nhị, cái tính chất của
đại lạc.
Vào lúc ấy, nếu ngay cả Dharmaraja, Thần chết móc vào con và
đem con đi, con sẽ không cảm thấy sợ hãi. Nếu ngay cả Phật Vajrasattva xuất
hiện, con cũng sẽ không có một nghi ngờ nào hay không chắc để quyết đoán. Đây
chính là sự cư xử tối hậu của thật nghĩa.
Qua các loại hành xử bí mật này, con thiết lập nền tảng của
trạng thái bổn nhiên, làm mạnh thêm cái thấy, tinh lọc sự thực hành và hưởng
quả. Lời dạy này là cực kỳ sâu xa.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố cho, thưa Đại sư! Con thỉnh
cầu Ngài, từ bi ban cho con giáo huấn cốt lõi nó cắt đứt gốc rễ của khổ đau, ở
trong sự tỉnh giác hiện tiền đưa cả hai sự sanh và sự chết vào đường Đạo.
Padmasambhava trả lời: Nghe đây Tsogyal! Chỉ bày các điểm
then chốt của thực hành qua năm Yoga, Ta sẽ dạy con giáo huấn cốt lõi dùng bất
cứ điều gì con làm như chính con đường.
* Thứ nhất, đối với Yoga giấc ngủ, giây phút rơi vào giấc
ngủ giống như đang chết. Bởi thế, phục hồi các Samaya của con, lập lại các thệ
nguyện Thanh văn, làm trong sạch dòng tâm thức, cắt đứt sự phức tạp của ba độc,
vắng bặt sự nhớ nghĩ và suy tính. Hãy để mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong
hoàn toàn tự do trong đại định của Tánh Như, trạng thái không trụ vào bất cứ
cái gì. Rơi vào giấc ngủ trong trạng thái của giai đoạn thành tựu không chướng
ngại, Pháp thân không ý niệm phân biệt, tức là dùng cái chết như con đường.
Làm tan biến mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong, thế giới
và chúng sanh, chủ tướng và tuỳ tùng, vào trong chủng tự ở trung tâm trái tim
của con. Bằng cách ngủ trong trạng thái không trụ, con dùng ý niệm về cái chết
như con đường.
* Thứ hai, Yoga của sự thức dậy giống như sự sinh ra. Ngay
khi thức giấc, nhớ lại một cách sống động sự tỉnh giác không chướng ngại từ
trong giai đoạn thành tựu. Điều này làm tịnh hoá sự tái sinh.
Tiếp
theo, con phải hiểu các điểm mấu chốt của nhân quả. Điều này đem đến sinh khí
cho bất kỳ sự thực hành tâm linh nào con làm và là một sự làm mạnh thêm hơn
những cái gì khác.
Buổi bình minh, phân phát phần tính chất trong sạch của thức
ăn vào trong các kinh mạch và thải các phần dơ bẩn. Khi bên trong các kinh mạch
hoàn toàn trống rỗng, các lỗi lầm hay đức hạnh bên ngoài, bên trong và bí mật
dễ dàng khởi sanh. Lúc ấy, các kinh mạch khởi lên như là kinh mạch trung ương,
khí Prana như là trí huệ, các nguyên tố như là đại lạc và tân con như là tánh
Giác bất nhị. Đây cũng là mục tiêu của sự thi hành vài loại chữa bệnh y học hay
nghi thức chữa bệnh. Hơn nữa, nó chính là lý do tại sao Đức Phật chứng ngộ sự
thật và giác ngộ viên mãn vào lúc bình minh.
* Thứ ba, Yoga về thức ăn phải được phối hợp với một sự
truyền pháp và lực của Mật thừa. Nếu con thực hành giai đoạn phát triển, hãy
dùng thức ăn như là cam lồ của trí huệ. Hãy quán tưởng hoá thần trong bụng con,
hãy hưởng thụ thực phẩm như là một hoá thần hoà tan vào một hoá thần.
Nếu con thực hành tịnh hoá nghiệp chướng, hãy dùng thực phẩm
như là cam lồ trí huệ. Hãy ăn theo cách hoàn toàn thiêu cháy các chủng tử của
sáu loài chúng sanh, các chủng tử đó hiện diện trong hình thể các chữ ở trong
lòng con.
Nếu con thực hành giai đoạn kết hợp, hãy dùng thức ăn như là
cam lồ của phương tiện và trí huệ bất nhị, ăn trong cách kết hợp.
Nếu con thực hành giai đoạn thành tựu, hãy dùng thức ăn như
là trí huệ của tướng và Không đồng hữu. Hãy thưởng thức pháp tánh ăn pháp tánh.
Tóm lại, hãy an trụ không phân chia trong bất cứ định nào
con đang thực hành và hưởng thụ. Theo cách này, bất cứ đồ ăn nào con dùng đều
trở thành nguyên nhân cho đại định.
* Thứ tư, về Yoga liên tục, một hành giả thực hành con đường
một cách đúng đắn, phải không bao giờ dung tha cho những phiền não bình thường.
Người ấy phải nhận ra mọi mối xúc động khởi ra, nhờ vào những kỹ thuật đặc biệt
và đem chúng vào con đường đúng.
Gốc rễ của phiền não là năm độc; ở đây làm thế nào dùng
chúng như là con đường. Khi tham muốn mạnh mẽ khởi lên, nhận ra chúng bằng
chánh niệm và tư duy về nguyên nhân của nó. Nó khởi sanh vì một tác nhân bên
ngoài, bị chao động bởi sự thúc đẩy tình dục với người khác giới. Bây giờ, sự
đau đớn của tham muốn cũng như một vòi nước mạnh phụt ra. Cuối cùng tâm con sẽ
hoàn toàn tan vào khuôn khổ của điều mà con đã thường quen.
Để nhận ra khuôn khổ này, hãy hiểu rằng tác nhân hấp dẫn bên
ngoài là do tâm con tạo ra. Nếu không phải thế, thì không có chuyện người con
yêu lại được nhìn như một kẻ thù bởi người khác. Sự thúc đẩy tình dục khởi từ
tâm con và biểu lộ như tham muốn, giống như ngọn gió khởi từ bầu trời trống
rỗng.
Bây giờ, đây là cách làm thế nào nhìn vào yếu tính của tham
dục và dùng nó như con đường. An trụ trong trạng thái trong đó tác nhân hấp dẫn
bên ngoài và sự thúc đẩy tình dục thoát khỏi nhị nguyên. Tham muốn do đó trở
thành yếu tính của Lạc và Không bất nhị. Tự tánh của tánh Không không được tạo
ra từ bất kỳ cái gì, nên sự biểu lộ của nó chính là lạc. Đây là sự hoàn thiện
của tham muốn, tức là Diệu quan sát trí.
Cũng thế, bằng cách nhìn vào yếu tính của giận dữ và an trụ
trong nó, con chứng ngộ yếu tính bất nhị của sáng tỏ và tánh Không. Tự tánh là
trống không và sự biểu lộ của nó là sáng tỏ. Đây là sự hoàn thiện của giận dữ,
tức là Đại viên cảnh trí.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của ngu si và an trụ trong trạng
thái đó, con chứng ngộ tánh Giác không có ý niệm. Tự tánh là trống không và sự
biểu lộ của nó là vô niệm, không tư tưởng. Sự hoàn thiện của ngu si là Trí pháp
giới.
Trong cách như thế, do đem kiêu mạn và ganh ghét vào con
đường mà chúng trở thành Bình đẳng tánh trí và Trí thành tựu tất cả (Thành sở
tác trí).
Tóm lại, mười điều xấu sanh từ năm độc. Năm độc đến từ ba
độc tham, sân, si. Bằng cách nhận ra ba độc này và dùng chúng như là con đường,
con giữ vững được các giáo lý của ba tạng và an trụ trong ba sự tu hành.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của tham muốn và an trụ trong
trạng thái ấy, con kinh nghiệm lạc phúc, nó trở thành Luật tạng. Con lìa bỏ
tham muốn bình thường, đó là sự tu hành Giới.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của sân và an trụ trong trạng
thái ấy, con kinh nghiệm sự sáng tỏ, nó thành Kinh tạng. Con lìa bỏ sân hận
thông thường, đó là sự tu hành Định.
Bằng cách nhìn vào yếu tính của si và an trụ trong trạng
thái ấy, con kinh nghiệm vô niệm, nó trở thành Luận tạng. Con lìa bỏ ngu si
thông thường, đó là sự tu hành Trí huệ phân biệt.
Con sẽ nhận ra mọi phiền não khởi lên và bằng cách này đem
chúng vào con đường.
Thứ năm là Yoga về thời gian và các điểm cốt yếu. Có năm
thời"
*
Thứ nhất, lúc bình minh phần trong sạch và không trong sạch của thức ăn tách
lìa nhau, tâm con bén nhạy, thân con mới mẻ, trí thông minh trong sáng và các
bindu tăng thêm. Sức mạnh của lầm lỗi hay đức hạnh mạnh thêm, đến độ cần phải
nhận ra bất kỳ tư tưởng nào sanh khởi như là tham và đem chúng vào con đường
đức hạnh.
* Thứ hai, và lúc hoàng hôn, sức mạnh của bindu giảm đi và
cảm giác lo lắng có thể khởi ra. Các sự hoá hiện của thần và quỷ ma lớn lên.
Thời gian này giống như sự chết, sức mạnh của lỗi lầm hay đức hạnh thì lớn hơn.
Thế nên, cần thiết phải biết bất kỳ tư tưởng nào sanh khởi, như là sợ hãi hay
khủng khiếp và đưa chúng vào sử dụng trên con đường đức hạnh.
* Thứ ba, khi một phần phiền não lớn lao hay một tư tưởng
quấy động sanh khởi, nếu con thất bại không thể dùng nó như con đường. Nó có
thể bằng giá của cả đời con, hay làm cho con hư hoại các lời nguyện, ngăn chặn
định của con và làm vặn vẹo con đường chân chính. Thế nên, hãy nhận ra nó và
đem nó vào con đường.
* Thứ tư, vào lúc tánh Giác bất nhị bổn nguyên hiện khởi và
tâm con hợp nhất như là yếu tính của vô niệm, hãy dùng cái này vào con đường
của phương tiện. Khi trong trạng tháp áp dụng các điểm then chốt vào trong
khuôn khổ của các kinh nghiệm này, hãy thực hành một thời gian dài không xao
lãng. Vào lúc ấy, các nguyện vọng và các mối liên kết với nhân quả được hình
thành. Đây là một điểm cốt yếu. Thế nên, điều quan trọng là hình thành quyết
định. Trộn lẫn các nguyện vọng và các mối liên kết nhân quả, với bất kỳ loại ý
nghĩ, ý niệm bình thường nào khác là không thích hợp. Vì cái người tạo ra (một
nguyện vọng) là một tư tưởng ý niệm danh tướng, cũng giống như lỗi lầm khi dùng
một món thuốc tính hàn để chữa một bệnh hàn.
* Thứ năm, khi cái chết đến con sẽ hoàn toàn dưới sự kiểm
soát năng lực của "nghiệp liên kết" riêng mình. Bởi thế, phải quyết
định tạo ra những mắt xích nhân quả tốt. Hãy để cho những việc xấu bị lãng quên
và nhớ lại tất cả các hành động đức hạnh. Chú tâm nhất niệm vào sự thực hành
riêng, mà con đã từng vững chắc trong đó và trong mỗi khoảnh khắc, hãy thoát
khỏi kinh nghiệm lầm lạc. Tóm lại, trong thời gian ấy cần yếu là tạo ra chuỗi
mắt xích nhân quả thiện.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố, thưa Đại sư! Xin Ngày dạy cho
các điểm then chốt của các trạng thái trung ấm.
Padmasambhava trả lời: Nghe đây Tsogyal! Đối với Bardo, thời
gian từ khi chết đến lúc tái sinh, được gọi là Bardo của sanh và chết. Nó gồm
ba điểm: tốt nhất là đạt đến giác ngộ trước khi kinh nghiệm bất kỳ Bardo nào.
Tốt tiếp theo là đạt đến giác ngộ trong trạng thái Bardo. Thứ ba là làm sao tái
sanh.
- Điểm thứ nhất có bốn phần: Các nguyên tố tan biến như thế
nào, các tư tưởng ngừng lại thế nào, trí huệ không ý niệm xuất hiện thế nào và
Phật tánh được đạt đến bằng cách nhận ra bản tánh của mình như thế nào.
* Thứ nhất, khi nguyên tố đất tan biến vào trong nguyên tố
nước, nút thắt kinh mạch ở rốn giải tan, thì prana của nguyên tố đất bị khủng
hoảng, thân cảm thấy nặng nề, ý thức nhạt đi và kinh nghiệm giống như một ảo
ảnh xuất hiện.
* Tiếp đó, khi nước tan vào trong lửa, nút thắt kinh mạch ở
tim giải tan, prana của nước bị khủng hoảng, miệng và mũi khô, ý thức dừng lại
và một kinh nghiệm như khói khởi sanh.
* Thứ ba, khi lửa tan biến vào gió, nút thắt kinh mạch ở yết
hầu giải tan, prana của lửa bị khủng hoảng, thân nhiệt yếu dần, tri giác chập
chờn và một kinh nghiệm giống như đom đóm khởi lên.
* Thứ tư, khi gió tan biến vào ý thức, nút thắt kinh mạch ở
chỗ bí mật giải tan, prana của gió bị khủng hoảng, hơi thở ngừng qua lỗ mũi, ý
thức đảo lộn nhẹ và một xuất hiện nhẹ của ánh sáng hiện ra.
- Các tư tưởng dừng lại thế nào: ở phần dưới chót của kinh
mạch trung ương là tinh tuý người mẹ của chúng ta trong hình tướng chữ A. Khi
sức mạnh kinh mạch phải yếu đi, tinh chất này đi lên, dấu hiệu là sự xuất hiện
màu đỏ. Vào lúc này, các trạng thái tư tưởng của tham dừng lại.
ở trên cùng của kinh mạch trung ương là tinh chất từ người
cha chúng ta trong hình tượng chữ Hang. Khi sức mạnh của kinh mạch trái yếu đi,
tinh chất này đi xuống và màu trắng xuất hiện. Vào lúc này, các trạng thái tư
tưởng của sân dừng lại.
Tiếp theo đó, nguyên tố gió tràn khắp trên đỉnh đầu bị khủng
hoảng và màu đen xuất hiện. Vào lúc này, các trạng thái tư tưởng của si dừng
lại.
Khi ba độc dừng lại theo cách ấy, kiêu mạn và ganh ghét cũng
tự động dừng lại, bởi vì ba độc đã tan biến vào ba kinh mạch. Sau đó hơi thở
bên ngoài dừng.
Thế nào trí huệ không ý niệm xuất hiện: đến lúc này, hơi thở
bên ngoài đã ngừng, nhưng hơi thở bên trong chưa ngưng. Mặt trời đi lên và mặt
trăng đi xuống gặp nhau, tâm thức thuộc về prana đi vào trong kinh mạch trung
ương. Vì ba cái này ở lại trong kinh mạch trung ương, vì các tư tưởng đã dừng
trong một lúc ngắn, tánh Giác không ý niệm, tâm Pháp thân của chư Phật, xuất
hiện trong khoảng một bữa ăn.
Thế nào Phật tánh đạt được bằng cách nhận ra trí huệ không ý
niệm: do năng lực đã quen dần với sự nhận biết này và bởi năng lực đắc định qua
các lời dạy miệng. Con sẽ nhận ra trí huệ câu sanh tự hữu này và đạt Phật tánh,
kết hợp hai phương diện Mẹ và Con của Pháp thân. Theo đó trí giác vượt qua nắp
mở của Brahma và đi vào Pháp giới.
Đây là lời dạy cho người có khả năng cao nhất để đạt đến
Phật tánh không qua bardo.
Lời dạy cho người có khả năng vừa để đạt đến giác ngộ trong
trạng thái bardo, có bốn điểm. Cách thức các nguyên tố tan biến và các trạng
thái của tư tưởng dừng lại thì giống như ở trên.
- Về điểm thứ ba, thế nào pháp tánh biểu lộ trong bardo: nếu
người ta không nhận ra trạng thái không ý niệm của Pháp thân, như trường hợp
người có khả năng cao tột, thì trí tỉnh giác trú trong trung tâm trái tim, đi
vào con đường của kinh mạch màu lụa trắng. Xảy ra ở bên ngoài, tâm và vật chất
lìa nhau con rơi vào trạng thái không thức giấc trong bảy ngày(1). Tỉnh dậy từ
sự hôn mê này, pháp tánh xuất hiện trong năm ngày, trong hình dạng các âm
thanh, màu sắc, ánh sáng và cảnh giới.[1]
Âm thanh là âm thanh tự nhiên của nguyên tố lửa, bao la và
mãnh liệt. Nó gầm như sét phân chia giữa hai mùa hè và mùa đông. Sự sáng rỡ của
tánh Giác biểu lộ trong các màu sắc trong trẻo và sống động. Các tia sáng chiếu
từ các màu sắc thì chói chang, như một ảo ảnh trên các cánh đồng mùa thu.
-
Thứ tư, thế nào đạt được Phật tánh bằng cách nhận ra khuôn mặt bổn nhiên của
con: do sức mạnh của tu hành điều đã được trực chỉ, các biểu lộ này cảu âm thanh,
màu sắc và ánh sáng sẽ xuất hiện như là trí tuệ câu sanh tự hữu và con sẽ đạt
đến Phật tánh.
Các cá nhân khác biệt nhau trong sự tu hành và quen thuộc
của họ. Đối với thiền giả tu trong giai đoạn thành tựu của Yoga hoá thần bổn
tôn, các biểu lộ này của âm thanh, màu sắc và ánh sáng sẽ mở bày như sự biểu lộ
tự nhiên của mạn đà la của hoá thần và người ấy đạt đến Phật tánh như là Báo
thân.
Thiền giả đã chứng ngộ sự giả ảo của các hình tướng sẽ thấu
hiểu rằng, các biểu lộ ấy của âm thanh, màu sắc, ánh sáng là giống như một giấc
mộng hay một ảo tưởng huyễn hoá và sẽ đạt được Phật tánh như Hoá thân.
Thiền giả đã chứng ngộ rằng, mọi hiện tượng sanh tử và Niết
bàn là kinh nghiệm tự biến hiện của cá nhân (rang nang) sẽ hiểu rằng, các biểu
lộ này của âm thanh, màu sắc, ánh sáng là tự khởi vốn tự giải thoát và sẽ đạt
được Phật tánh như là Thân Yếu Tính.
Bởi thế, con phải đi qua bardo bằng bất cứ pháp môn tu hành
nào con đã có kinh nghiệm và chứng ngộ trong đó.
Cuối cùng, thế nào để tái sinh có năm điểm. Cách thế các
nguyên tố tan biến và các trạng thái tư tưởng dừng lại cũng giống như ở trước.
Thứ ba, thân do thức dần dần được tạo thành qua tám duyên
sanh(1): vô minh là không nhận ra được rằng ánh sáng là sự tự biến hiện của
chính con. Hành (sự tạo lập) xảy ra, bởi sức mạnh của hành, khi năm prana gom
lại và tạo thành sự hiện hữu của sanh tử. Từ hành, thức trở nên rõ ràng hơn và
sự bám trụ vào một đối tượng xảy ra.
Tiếp theo danh và tướng của trạng thái bardo sanh ra(2).
Thức trở nên nhanh nhạy, tạo thành các căn (giác quan). Xúc là khi các giác
quan gặp một đối tượng. Thọ là cảm giác sướng khổ. ái là khi do đó con khởi lên
thích hay ghét. Như thế tám yếu tố này tạo thành thân do thức sanh.[1]
Thứ tư, thế nào kinh nghiệm bardo xảy ra: các tướng của thói
quen và nghiệp biểu lộ; như thế con kinh nghiệm sự du hành đến quê nhà đời
trước và liên hệ với mọi người thân quen bằng cái thức. Thức ăn và nơi ở của
con thì bất định, và thân thể bằng thức sống nhờ đồ cúng được đốt. Ngoài việc
có thể vào tử cung của người mẹ đời kế tiếp và đi đến toà Kim Cương, con có thể
di chuyển không chướng ngại. Thường trực sợ hãi, bị đe doạ và khủng khiếp, con
kinh nghiệm các cái thấy về quỷ ăn thịt, các thú dữ tợn, mưa bão dữ dội và bão
tuyết. Con tìm sự ẩn núp, trốn lánh bất cứ chỗ nào. Các giác quan thông tỏ và
khả năng của tâm thức thì toàn vẹn. Con có thiên nhãn và có thể nhìn thấy các
chúng sanh khác của cảnh giới bardo.
Thứ năm thế nào tái sanh trở lại: sau khi sự tỏ rạng nhanh
chóng của ánh sáng căn bản đã lắng xuống, con kinh nghiệm năm con đường ánh
sáng thông thường(1). Vô minh câu sanh, làm cho không thể nhận ra tánh Giác
sáng tỏ này là khuôn mặt xưa nay của con. Vô minh thuộc về ý niệm là ý niệm hoá
tánh sáng tỏ, quang minh này thành một cái gì khác. Trụ vào các tướng của cái
khác đó, con tái sanh vào sáu loại chúng sanh, như một con hươu mắc trong bẫy
hay con ong kẹt trong một bông hoa.
Bám trụ vào ánh sáng trắng, con sẽ sinh lại giữa các chúng
sanh của địa ngục. Bám trụ vào ánh sáng đỏ, con sẽ sanh lại làm ngạ quỷ. Đi vào
trong ánh sáng màu đen thì sanh làm thú vật. Đi vào ánh sáng màu vàng dẫn đến
tái sanh làm một con người. Và bám trụ vào ánh sáng lục dẫn đến tái sanh làm
thiên hay Atula. Vào lúc ấy con phải nhớ đến sự đau khổ của sáu loài chúng sah
và không trụ vào bất kỳ loại ánh sáng nào như vậy.
Thức trong bardo dễ dàng đổi hướng. Thế nên, nếu con có thể
ở trong sự tỉnh giác chánh niệm, và phát khởi sự mong mỏi sâu xa đối với một
cõi Phật như là cõi Tịnh Độ con sẽ sinh về nơi ấy không một chút nghi ngờ....
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét