An Phong dịch ra Việt ngữ
Lời nói đầu
Những chỉ dạy gồm những trong Những
Khai thị từ Đức Liên Hoa Sanh được nói trực tiếp bởi Padmasambhava cho các đệ
tử thân thiết ở Tây Tạng. Trước tiên chúng được ban cho để trả lời các câu hỏi
từ Bà Tsogyal, công chúa của Kharchen, bà chép lại và cất giấu chúng như kho
tàng Terma quý báu để sẽ được khám phá vào nhiều thế kỷ sau. Hỗu hết mỗi chương
đều đề cập rằng: Các giáo huấn này được ban cho, vì sự lợi lạc của các hành giả
các thế hệ tương lai và thường thường chúng kết thúc với câu “Mong rằng sách
này gặp được tất cả những ai xứng đáng và có duyên trong tương lai!”.
Những khai thị từ Đức Liên Hoa Sanh là một bộ đi cùng với
cuốn Dakini Teachings (Những chỉ dạy Dakini) (Shambhala, 1989), và khởi từ một
cố gắng liên tục nhằm giới thiệu những chỉ dạy của Padmasambhava để cho những
hành giả hiện đại tu hành. Padmasambhava là những bậc Đạo sư vĩ đại đã thiết
lập Phật giáo ở Tây Tạng vào cuối thế kỷ thứ tám. Liên Hoa Sanh (Shambhala
1993) chứa đựng nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài.
Tulku Urgyen Rinpoche biểu lộ sự tin tưởng rằng: Một bản
dịch Anh ngữ của các lời dạy quý báu này sẽ mang lại lợi lạc to lớn. Ngài yêu
cầu tôi tìm kiếm các chủ đề khác với các chủ đề đã được trình bày trong Những
lời dạy Dakini.
Bộ sách này gồm lời chỉ dạy bằng miệng về Kim Cương thừa, mà
những Đạo sư kiệt xuất nhất đã chọn lọc từ các giáo lý Terma. Bởi vì những phát
giác này trải rộng nhiều thế kỷ và được phát hiện do những người khác nhau, ở
những địa điểm khác nhau, ngôn ngữ và văn phạm của chúng hầu hết đều đồng nhất.
Nguyên bản được giới thiệu ở đây chỉ đại diện một phần trong
toàn bộ kho tàng Terma mênh mông, khám phá được hơn một thiên niên kỷ nay. Cuốn
sách này được sưu tập từ các nguồn sau: Gongpa Sangtal của Rigzin Godem, Martri
của Nyang Ral, Lama Gondu của Sangye Lingpa, Tongwa Dệnden (một bộ sưu tập),
Khandro Nyingtig của Pema Ledrel Tsal và Chokling Tersar của Chokgyur Linpa.
Chương đầu, tựa là “Chúc thư Đầu nhọn Hạt ngọc” và chương
thứ sáu cũng là chương dài nhất “Kho tàng các Viên ngọc quý”, được lấy từ bộ
Gongpa Sangtal nổi tiếng, một “vòng” Terma khám phá bởi Rigdzin Godem
(1337-1408), vị thầy của Jangter hay truyền thống “terma Bắc” của phái Nyingma,
Rigdzin Godem, nghĩa đen là “Vị Vidyadhara với lông chim kên kên”. Ngài có tên
ấy bởi vì ba lông chim kên kiên mọc trên đầu lúc mười hai tuổi và thêm năm cái
nữa vào năm hai mươi bốn tuổi. Là một hoá thân của Dorje Dudjom họ Nanam, một
trong chín đệ tử thân cận người Tây Tạng của Padmasambhava, Ngài cũng được tính
vào năm Terton như vua.
Gongpa Sangtal là một rút gọn của “chỉ thẳng Chứng Ngộ của
Phổ Hiền” vị Phật nguyên thuỷ. Tuyển tập này cũng gồm “Nguyện vọng của Phổ
Hiền” nổi tiếng. Gongpa Sangtal gồm năm phần; các chương này thuộc về một phần
gọi là Kadag Rangjung Rangshar, “tánh thanh tịnh bổn nhiên tự hữu và tự hiện”.
Nguồn chánh thứ hai là Martri của Nyang Ral, “Giáo Huấn Trực
Tiếp” của Padmasambhava được Đại sư Nyang Ral Nyima ệzer (1124-1192) phát hiện.
Trong Dakini Teachings, tôi đã diễn tả ngắn gọn cuộc đời của Nyang Ral. Bộ lời
dạy này được gồm trong Rinchen Terdzử bởi Jamgon Kontrul (1813-1899), đó là một
tuyển tập các lời dạy terma với tên là “Kho tàng quý báu của Terma”.
Nguồn thứ ba là Lama Gongdu do
Sangye Lingpa (1340-1396) phát hiện. Tiêu đề ấy có nghĩa là “Sự chứng ngộ hiện
thân của Đạo sư” (Padmasambhava). Sangye Lingpa là một hoá thân của người con
thứ hai vua Trisong Deutsen (790-844) và được tính vào Tám Lingpa hay những
Terton chính. Sự phát hiện chính yếu của ngài là vòng Terma Lama Gongdu khổng
lồ, gồm 18 bộ khoảng 700 trang một bộ, và Kathang Sertreng tiểu sử mở rộng của
Padửnghĩa là “đầy ý nghĩa để nhìn”, và là một tiểu sử của Padmasambhava được
sưu tập từ ba nguồn chính: Biên sử Katang do Orgyen Lingpa (1329-1360/67),
Nyang Ral (1124-1192) và Guru Chowang (1212-1270) phát hiện. Gồm 274 tờ rộng
khổ đôi, bản văn này được tìm thấy trong thư viện của Shechen Tennyi DargyeLing
ở Boudhanath. Mục lục nói rằng nó gồm các nguyên bản từ:
1/ Tiểu sử mở rộng của Đại Đạo
sư Uddiyana, phát hiện bởi Orgyen Lingpa từ chỗ tối cao của Động Pha Lê ở
Yarlung.
2/ Chúc Thư của Padma, phát hiện bởi
đại Terton Nyang Ral.
3/ Tiểu sử về 45 công hạnh, do Công
chúa Mandavara trước tác và cô đọng vào Tiểu sử về 11 công hạnh bởi Guru
Chowang, vị Terton của Lhodrak.
4/ Các Giáo huấn riêng rẽ, các trả
lời khác nhau cho các câu hỏi và các lời tiên tri từ Lama Langdu của Sangye
Lingpa.
Nguồn thứ tư, tôi dùng một chương từ
Khandro Nyingtig, “Tâm Yừu của những Dakini” của Pema Ledrel Tsal.
Padmasambhava cất giấu những chỉ dạy của Ngài về Vòng Thậm Thâm Vô Thượng của
Đại Toàn Thiện để sẽ được khám phá trong tương lai như là Khandro Nyingtig. Vị
Terton của vòng quan trọng này là Pema Ledrel Tsal (1291-1315/19), một hoá thân
của Công chúa Pema Sal, con gái vua Trisong Deutsen, tái sanh ngay sau đó của
Công chúa là vị thầy nổi danh Longchen Rabjam (1308-1363), tiếp theo là Pema
Lingpa (1445-1521). Trong những năm gần đây vị thầy này tái sanh là Khenpo
Ngakchung, hiệu là Ngawang Palsang (1879-1941), Ngài cũng dùng tên Pema Ledrel
Tsal.
Cuối cùng Lời Nguyện Mạn Đà La Kim
Cương Giới là một tán tụng rất quan trọng về thiện ý trong Chokling Tersarr. Nó
được tụng thuộc lòng vào lúc chấm dứt của hầu hết mọi nhóm họp tâm linh trong
truyền thống Kagyu và Nyingma. Chokling Tersar “Các kho tàng Terma mới của
Chokgyur Lingpa” (1829-1870) được khám phá do đại Terton Jamyang Khyentse
Wangpo (1820-1892) và hai vị cộng tác thân thiết cùng với Jamgon Kongtrul thứ
nhất (1813-1899).
Xin cảm ơn ngài Tulku Urgyen
Rinpoche, người giữ gìn trái tim của các giáo lý Padmasambhava, đã từ bi giải
thích bất cứ câu hỏi gì tôi thắc mắc và các chỉ dạy sâu xa, soi sáng chiều sâu
của cái thấy được trình bày trong sách này, và Chokyi Nyima Rinpoche đã giảng
dạy rộng rãi pháp nhiều năm nay, gồm cả hai khoá về câu hỏi và trả lời
giữa Padmasambhava và Yeshe Tsogyal.
Cuối cùng, tôi hoan hỉ vì bản dịch
này được hoàn thành ở Chùa Động Asura vào ngày thứ mười âm lịch, ngày mà
Padmasambhava đã hứa là Ngài đến từ đất nước thanh tịnh của Ngài “Ngọn Núi Rạng
Rỡ Màu Đồng”, để ban phước cho những ai kêu gọi đến Ngài. Nguyện
rằng những lời chỉ dạy quý giá này là nguồn cảm hứng sâu xa cho những ai đọc
chúng!
Erik Pema Kunsang
Nagi Gompa, 1994
Lời
dạy mở đầu
Các giáo huấn chứa đựng trong Những
khai thị từ Đức Liên Hoa Sanh, thuộc về loại được gọi Martri hay “Lời
dạy trực tiếp”. Martri nghĩa là lời khuyên bảo cá nhân được trao cho từ
tâm, dạy theo một lối rõ ràng và trực tiếp, phát hiện các bí mật thâm sâu nhất
và cất giấu nhất. Thường thường một sự chỉ dạy như thế chỉ dành cho một đệ tử
vào một thời điểm nào đó. Các giáo huấn trực tiếp của Padmasambhava cô đọng,
nghĩa chính yếu các Tantra của Mahayoga, các kinh văn của Anu Yoga và cốt loại
của Ati Yoga.
Có lời nói rằng: “Khi các ngọn lửa
của thời đen tối hoành hành tràn lan, những sự chỉ dạy của Kim Cương thừa, của
Mật thừa sẽ cháy bùng như lửa rừng”. Padmasambhava là đại sứ đầu tiên của Mật
thừa và Ngài xuất hiện trong vai trò của mỗi một trong một ngàn vị Phật ở kiếp
này.
Bổn sư của tôi là Samten Gyatso
thường nói: “Hãy nhìn cho kỹ và thấy các giáo huấn Terma của Padmasambhava là
lạ lùng biết bao! Hãy so sánh các Terma với các luận văn khác và thấy tính chất
độc nhất của chúng! Lý do là đầu tiên chúng được chính Padmasambhava tạo nên,
vẻ đẹp của lối văn xuôi ấy thì đáng kinh ngạc!”.
Samten Gyatso cũng nói: “Thật rất
khó cho một người nào tạo ra một thứ văn chương đẹp đẽ và sâu xa như văn xuôi
tìm thấy trong các thực hành của Terma. Khác với các luận văn của người chỉ có
học nhiều, mỗi lời có thể hiểu ở những mức độ càng ngày càng sâu. Đó là phẩm
tính đặc biệt lời Kim Cương của Padmasambhava”. Thầy tôi biểu lộ rằng: “Ngài
luôn luôn thán phục đến thế nào về câu nói của Padmasambhava! Samten Gyatso thì
uyên bác rất mực và đã nghiên cứu một số lượng văn học bao la. Ngay dù thế,
Ngài luôn luôn có thể tìm thấy nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau trong lời chỉ dạy
của Padmađambhava. “Khi con đọc các lời chỉ dạy của Padmasambhava, con không tránh
được cảm thấy niềm tin và sùng mộ”, Ngài nói. “Con chỉ có thể quy phục với một
niềm tin trọn vẹn!”. Samten Gyatso có một đức tin không thể tưởng vào
Padmasambhava. Ngài thường nói: “Không có ai vĩ đại hơn Padmasambhava. Vĩ
nhiên, Phật Thích Ca là gốc, nhưng Padmasambhava là người đã làm cho các giáo
lý Kim Cương thừa lan rộng, nở rộ khắp ấn Độ và đặc biệt là Tây Tạng”.
Chúng ta thấy rằng các lời dạy giống
nhau xuất hiện bởi sự khám phá của một vài Terton. Lý do chúng là lời nói không
thể sai lầm của Padmasambhava được giải từ chữ viết tượng hình, người ta không
cần phải nghi ngờ gì. Ví dụ: Bảy Dòng Cầu Khẩn bắt đầu với “ở biên giới
Tây Bắc xứ sở Uddiyana...” xuất hiện trong rất nhiều Terma khác nhau, các người
khám phá khác nhau đều rút ra từ một nguồn.
“Các Terton vĩ đại đích thật thì rất
kỳ diệu!” Samten Gyatso nói: “Các đạo sư như Nyang Ral, Guru Chửwang và Rigdzin
Gửdem thật sự là không thể tưởng được! Hai vị Terton đầu Nyang Ral và Guru
Gửdem được biết như là hai Terton vua và một trăm Terton khác được xem như là
người hầu của họ. Cũng có ba Terton xuất chúng, tám Lingpa, hai mươi lăm Terton
chính vv... tất cả các ngài đều quan trọng như nhau. Nhưng giữa 108 Terton, hai
vị chính là hai Terton vua: Nyang Ral ệzer và Guru Chửwang. “Không ai vĩ đại
hơn hai vị ấy!”. Ngài nói: “Vị Terton đầu tiên của tất cả các Terton là Sangye
Lama, bởi thế không phải như là Sangye Lingpa. Tôi không quen thuộc với các chi
tiết của các tiểu sử có rất nhiều, tôi chỉ biết là họ rất xuất sắc”.
Khi Dzongsar Khyentse Chửkyi Lodro
còn ở Gangtok, tôi có dịp may viếng Ngài mỗi buổi sáng trong 25 ngày để hỏi
nhiều vấn đề khác nhau. Vào lúc đó sức khoẻ Ngài tốt, vì đang trong tình trạng
một nửa ẩn tu, Ngài không tiếp khách. Nhưng vì tôi là một con cháu của Chokyur
Lingpa, Ngài bày tỏ lòng tốt đặc biệt với tôi và gọi tôi đến gặp, thường thường
Ngài ở một mình không có thị giả nào.
Một hôm, tôi bày tỏ sự không biết
của tôi và hỏi: “Người thường không biết gì như con, phải có thời gian cực nhọc
để tìm ra trong tất cả các Terma, về các hoá thần của ba gốc do hai Terton vua
khám phá và của 108 Terton chứa đựng trong Rinche Terdzo, cái gì là quan trọng
nhất. Chúng con như những trẻ nhỏ nhặt hoa trong một đồng cỏ bao la, cố gắng
chọn cái đẹp nhất. Theo Ngài, những cái gì là quan trọng nhất?”. Ngài đã trả
lời: “Về phương diện Guru, không có gì vĩ đại hơn sự thực hành vào ngày thứ
mười trong tám chương của Guru Chửwang. Nó là cái thống lãnh trong mọi loại
Guru Sadhana. Về phương diện Yidam, Padmasambhava dạy Giáo Huấn Tám Sadhana và
bản dịch của Nyang Ral là vượt trội. Về phương diện Dakini Troma Nagmo của
Nyang là tối cao. Ba cái nầy là quan trọng nhất trong các Terma được phát
giác”. Sự thực hành vào ngày thứ mười trong tám chương của Guru Chửwang
đặt căn bản trên chính hình tướng của Padmasambhava như là Lama Sangdu (vị đạo
sư hiện thân mọi bí mật). Có ba bản dịch chính của Giáo Huấn Tám Sadhana.
Trong mọi thực hành Dakini khác nhau, Troma Nagmo của Nyang, một hình
tướng hung nộ, màu đen của Vajra Yogini, là cùng cực sâu xa.
Khi tôi hỏi: “Còn cá nhân con thực
hành cái gì?” Dzongsar Khyentse nói với tôi: “Hãy lấy Tukdrub Barchey Kunsel,
như sự thực hành riêng biệt cho con! Trong các Terma của Chokgyur Lingpa,
Barchey Kunsel là sâu thẳm vô cùng và được khám phá không có trở ngại gì.
Khi các chướng ngại đã được dời bỏ, sự thành tựu xảy ra tự nhiên. Thế nên, hãy
tập trung vào sự thực hành ấy!”.
“Con sẽ xem ai như là Guru?” tôi
hỏi. Dzongsar Khyentse trả lời: “Hãy cầu khẩn Chokgyur Lingpa! Thế là đủ rồi,
không có gì hoàn hảo hơn thế. Ngài sẽ đáp ứng về phương diện Guru!”.
Khi tôi hỏi: “Thực hành
Dzogchon nào con nên tập trung vào?”. Dzongsar Khyentse lại nói: “Con nên thực
hành Kunzang Tuktig! Đây là thời mà hai giáo trình Kuzang Tuktig và Chetsun
Nyingtig sẽ ảnh hưởng vào dân chúng. Mỗi thời đại có giáo huấn riêng của nó
về Đại Toàn Thiện, điều đó đặc biệt có ý nghĩa trong thời hiện nay. Thời kia,
cái được biết rộng rãi nhất là Nyingtig Yabzhi; sau đó đến Gongpa
Sangtal của Rigdzin Godem và Tawa Long Yang của Dorje Lingpa, rồi
tới Kửnchok Chidu của Jatson Nyingpo. Mỗi Terma đều có thời đặc biệt của
nó”.
Về điều này, Samten Gyatso bày tỏ:
“Padmasambhava được tán dương. Vì trước khi rời Tây Tạng, Ngài đã cất
giấu một số lớn Terma gồm các lời dạy, đá quý và các vật linh thiêng cho các
hành giả của mỗi thế kỷ. Các Terton xuất hiện về sau để khám phá ra các kho
tàng terma này, đã được Padmasambhava ban phước và gởi đi sau khi đã nhận sự
truyền pháp và đọc sự trao truyền của toàn bộ dòng phái.
Ngày nay có vài người trí thức nói
rằng: “Những Terton không có dòng liên tục được truyền pháp và đọc sự trao
truyền từ Padmasambhava đối với nx giáo huấn của các Ngài. Các Ngài chỉ đào lên
được một số văn bản do chính các Ngài cất giấu!”. Thật ra, mỗi một Terton đã
nhận được sự trao truyền toàn bộ qua các sự ban phước của Padmasambhava, trong
một cách chính thống c ao hơn rất nhiều so với các truyền pháp và trao truyền
theo một lối bề ngoài thường được làm, thường chỉ là một sự tương tự với ban
phước. Tất cả các Terton vĩ đại là những đạo sư mà thân, khẩu, tâm ý đã được
ban phước và truyền pháp một cách cá nhân. Bởi chính Padmasambhava, nói rằng:
Các vị không có sự trao truyền là trẻ con. Những nhận xét như thế chứng tỏ sự
ngu dốt của người phát biểu về bảy lối trao truyền truyền thống. Các giáo huấn
trong terma là sâu xa đáng kinh ngạc và được cất giấu trong hòm kho tàng theo
“bốn cách thức và sáu giới hạn”. Chúng có một chiều rất sâu xa để thăm dò, nếu
con thích thú”.
Từ thuở thiếu niên, một Terton vĩ
đại đã khác với một đứa trẻ bình thường. Ngài có những linh kiến về các hoá
thần và sự chứng ngộ trào lên từ bên trong. Những Terton không giống người bình
thường, chúng ta phải theo con đường tiệm tiến thứ lớp về nghiên cứu và thực
hành. Người bình thường không có sự chứng ngộ tức thời!
Đã vài thế kỷ trôi qua từ khi
Padmasambhava còn sống, nhưng qua lòng tốt vô bờ của Ngài, Ngài đã cất giấu vô
số terma cho sự lợi lạc của người tương lai trong đá tảng, trong hồ và ngay
trong không gian. Nghĩ đến lòng tốt bao la này gây nên sự sợ hãi. Tn, có những
người không đánh giá nổi lòng tốt ấy.
Khi thời điểm đến cho các lời dạy
terma được khám phá, các Terton vĩ đại xuất hiện trong thế gian này. Các vị có
thể lặn vào hồ, bay đến những nơi chốn hang động không thể đến và lấy báu vật
ra từ trong đá tảng.
Bà nộitôi, là con của Chokgyur
Lingpa, đã chứng kiến điều đó và sau này kể lại cho tôi: “Khi đá mở ra, trông
giống như hậu môn của một con bò; đá trở nên mềm và chảy ra để lộ một lỗ hổng
đựng terma. Thường thường, vị Terton lấy terma ra trước sự có mặt của hơn ngàn
người. Như thế không có căn cứ cho sự nghi ngờ. Khi đá mở ra và bên trong có
thể thấy được, chúng ta thấy nó đầy ánh sáng cầu vồng lấp lánh. Các phẩm vật
terma nóng không rờ được. Rồi thì có một số lượng thật nhiều bột sindhura,
đến nỗi nó chảy ra ngoài. Thường thường Chokgyur Lingpa mang một tấm vải thêu
để đặt báu vật lên. Nhiều cái để lại dấu cháy xém vì các terma rất nóng, không
có ai ngoài Ngài có thể cầm nó”. Về sau tôi có thấy một vài mảnh thêu cháy xém
này, màu đỏ và vàng, trong phòng chứa đồ linh thiêng của Chokgyur Lingpa.
Bà tôi nói tiếp: “Rồi Chokgyur
Lingpa đặt terma đôi khi là một bức tượng để nguội dần trên một tấm vải thêu
trên một bàn thờ lộ thiên. Ngài giải thích cho những người hiện diện, terma
được cất giấu như thế nào, nó được phát giác bây giờ bằng cách nào, các lợi lạc
khi nhận được sự ban phước của nó... Đám đông khoảng hơn một ngàn người chảy
nước mắt vì tin tưởng và sùng mộ, không khí rì rào với tiếng kêu. Ngay nếu con
là một người trí thức ngang bướng, mọi thứ nghi ngờ cũng phải tiêu tan. Mọi
người đều sững sờ thán phục”.
Phải với cách như thế, bởi vì người
Tây Tạng, đặc biệt là những người ở tỉnh Kham miền Đông Tây Tạng, họ cực kỳ
nghi ngờ. Họ không tự nhiên tin một Terton, nhưng Chokgyur Lingpa thì vượt lên
mọi sự nghi ngờ và bàn tán. Bởi vì Ngài khám phá các terma lập đi lập lại với
sự chứng kiến của vô số người hiện diện.
Lời dạy Terma, lời trực tiếp của
Padmasambhava, khi được khám phá vào thời điểm định mệnh, thì có một chiều sâu
khó mà các luận văn khác sánh được. Chúng có các ban phước độc nhất, nhưng
những sự ban phước tuỳ vào niềm tin và sùng mộ của bạn. Karsey Kongtrul, con
của Karmapa thứ mười lăm, có lần nói với tôi: “Ba lần tôi cử hành lễ drubchen
về terma Tukdrub Barchey Kunsel của Chokgyur Lingpa và mỗi lần những dấu
hiệu thành tựu lạ lùng lại xuất hiện”. Tôi hỏi: “Xin nói cho tôi, chúng là
những gì?”. Một lần, một lượng cam lồ rất nhiều chảy ra, rất ngọt ngào và hơi
chua như rượu chang tuyệt hảo, từ torma trên bàn thờ và chảy tràn mọi hướng cho
đến cổng chùa. Lần khác, amrita và rakta trên bàn thời bắt đầu
sôi lên, tiếng sùng sục như nước sôi. Lần thứ ba chúng tôi cũng sửa soạn phương
dược thiêng liêng và mùi thơm ngọt ngào của nó có thể ngửi thấy luôn bảy ngày
sau. Trong đời, tôi chưa bao giờ chứng kiến các dấu hiệu lạ lùng như trong ba
lần đó”. Điều này cũng có thể do sự phối hợp của một giáo lý terma sâu xa và
một đại sự cao tột như thế. Có nhiều câu chuyện khác về cam lồ chảy ra từ terma
tên bàn thờ trong các lễ drubchen ở tu viện Tsiley của Chokgyur Lingpa.
Đại sư Jamgyang Khyentse Wangpo cũng
phát giác một terma tương tự với Tukdrub Barchey Kunsel. Sau khi gặp
Chokgyur Lingpa và xem xét, so sánh cẩn thận hai bản dịch của terma này,
Jamyang Khyentse đốt cháy bản văn của mình, nói: “Vì câu và nghĩa giống nhau,
ích lợi gì có thêm một bản! Cái của Ngài, là một terma đất, thì sâu xa hơn và
sẽ có hiệu lực hơn bản terma tâm của tôi”. Như thế các ban phước của hai dòng
terma đất và terma tâm được hoà trong một dòng chảy. Một terma đất thì bằng vật
chất và lấy ra từ đất, trong khi terma tâm được khám phá từ sự rộng mở của
chứng ngộ. Người ta nói rằng những terma đất đem đến nhiều lợi lạc lớn hơn cho
con người, bởi vì chúng thường có mảnh giấy da màu vàng với chữ tượng trưng
được cất giấu bởi Padmasambhava.
Chữ tượng trưng này được gọi là chữ
dakini thì sâu xa không thể tượng. Trích dẫn một bản kinh Tantra: “Chữ của kho
tàng là thân thể của sự lưu xuất huyễn hoá. Chúng cũng là khẩu quyết để hiểu âm
thanh và ngôn ngữ. Bằng sự thấu suốt ý nghĩa của chúng, chúng cũng là tâm”.
Theo cách ấy, thân, khẩu và tâm giác ngộ đều gồm chứa trong chữ của dakini. Chữ
viết này chính nó là hoá thân, thân thể của sự sáng tạo huyễn hoá. Đối
với một vị thầy, ban cho một sự trao truyền bằng cách đọc, dầu chỉ một bài tán
ngắn thì chữ viết là luôn luôn cần thiết, không thể lập lại theo trí nhớ. Tương
tự, có một sự khác biệt sâu xa giữa sự việc có hay không có mảnh giấy da màu
vàng với chữ của dakini.
Các lời dạy của Padmasambhava thường
kết thúc mệnh lệnh của Ngài với các đệ tử, chớ truyền bá chúng ngay mà cất giấu
chúng cho lợi lạc của các tín đồ tương lai. Lý do là để giữ gìn sự liên tục của
các lời dạy cốt tuỷ. Không cất giấu sự chỉ dạy trực tiếp như các kho tàng
terma, dòng của chúng sẽ chết qua nhiều thế kỷ. Lờy một ví dị là nhà
Siddha vĩ đại Karma Pakski, trước tác của Ngài khoảng gần một trăm bộ, nhưng
hôm nay chúng ta chỉ có ba bộ còn lại. Sự việc diễn ra như vậy. Các giáo huấn
về thực hành pháp Cho của nữ đạo sư Machig Labdron, cắt đứt chấp
ngã, khoảng 80 hay 90 bộ, nhưng ngày nay bạn tìm đâu ra toàn bộ lời dạy quý báu
ấy?
Trong dòng Nyingma, không có đạo sư
vĩ đại nào được biết tiếng do học rộng hơn Rongzompa và Longchenpa. Ngay dù
Rongzompa thường được xem là bác học hơn, nhưng Longchenpa thì vượt trội trong
các lời chỉ dạy về cái thấy. Mỗi vị đều có một toàn tập trước tác hơn 60 hay 70
bộ, nhưng ngày nay chúng không tìm thấy được ở bất kỳ đâu. Các lời dạy biến
mất!
Sự chỉ dạy của terma về mặt kia, thì
vô tận. Khi một Terton đích thực có một linh kiến chữ viết tượng trưng, mỗi một
chữ trở thành một toàn thể đồ thị huyễn hoá. Hơn nữa các chữ của lời dạy
để được viết lại tồn tại giữa không trung cho đến khi chúng được chép đúng; nếu
một câu còn sống chập chờn, đó là vì vị Terton có một lỗi đánh vần sai. Như thế
sự chính xác khi giải mã được bảo đảm.
Chúng ta có thể dễ dàng đồng ý về sự
quý giá của Padmasambhava và Yeshe Tsogyal. Những lời dạy các Ngài cất giấu
trong hồ và núi không bị uổng phí. Ngay khi đúng thời, bản viết xuất hiện sống
động và rõ ràng trong trường kinh nghiệm của vị Terton. Trước khi có sự khám
phá thực sự một terma, vị Terton sẽ nhận một bản văn hướng dẫn, một bản văn
ngắn giải thích chỗ của terma, bảng liệt kê các lời dạy và thời điểm đúng cho
cuộc khám phá. Khi đến chỗ ấy, bà tôi nói: “Chokgur Lingpa đã được hướng dẫn
bởi một tia sáng từ trung tâm của terma, dẫn Ngài thẳng đến chỗ cất giấu”.
Padmasambhava có thể thấy thông suốt ba thời quá khứ, hiện
tại và vị lai, cũng rõ ràng như một vật đặt trên bàn tay chúng ta. Bởi thế chắc
chắn Ngài cũng thấy loại giáo lý nào thích hợp cho các thế hệ tương lai. Khi
Ngài quở trách đệ tử chính Yeshe Tsogyal, hay người Tây Tạng nói chung, bất kể
bạn sinh ở xứ sở nào, bạn cũng được tự do nhận lãnh sự phê bình ấy để dẹp trừ
những lầm lỗi ẩn tàng. Sự nghi ngờ ngăn che lợi lạc, chớ giống như một cái hang
quay mặt về phương Nam, nơi mà mặt trời không bao giờ tới. Khi Padmasambhava
chỉ thẳng cái gì tạo ra một lỗi lầm và cái gì ngăn bít con đường giác ngộ, các
chân lý như thế thật là vững chắc, không chỉ cho người Tây Tạng, mà cho bất cứ
ai thành thật muốn theo một thực hành tâm linh. Vì chúng ta đang sống trong một
thời đại khác với thế kỷ thứ 8, bạn có thể do đổi danh từ "dân Tây
Tạng" thành "người của thế giới này".
Yeshe Tsogyal, là người sưu tập chính các lời dạy của
Padmasambhava và không có bà, chúng ta sẽ không có nhiều các lời chỉ dạy của
Ngài đến thế. Ananda đã là người sưu tập chính những lời của Phật Thích Ca về
kinh. Trong khi Vajrapani sưu tập lời dạy Mật thừa của Ngài, trong tinh tuý
chúng đồng nhất với nhau. Yeshe Tsogyal có điều được gọi là "trí nhớ không
quên sót". Bà không bỏ quên một câu nào đã được nghe, có phải là hoàn toàn
vô ích khi nghe được điều gì mà lại quên mất!
Người sưu tập những lời chỉ dạy của Padmasambhava này chính
là một hoá thân của các Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật, Vajra Varahi và Thánh Tara.
Bà xuất hiện trong thế giới chúng ta cho mục tiêu đặc biệt này, nó là nhiệm vụ
của bà. Ananda, Vajrapani và Yeshe Tsogyal đều được diễn tả là có trí nhớ siêu
phàm, năng lực ghi nhớ không quên sót. Sự nhớ không quên sót này là giống với
điều mà chúng ta gọi là không phóng tâm, bởi vì quên và phóng tâm là cùng một
bản chất. Trong cuốn sách này, chúng ta có những lời chỉ dạy bà đã nghe, không
quên sót, hệ thống hoá và cuối cùng cất giấu như là kho tàng terma cho chúng
ta. Yeshe Tsogyal là một phụ nữ, có thể một số người tin rằng chỉ có nam giới
mới có thể đạt giác ngộ, nhưng cuộc đời của bà là bằng chứng ngược lại. Trong
thực tế, trạng thái giác ngộ của tâm thì không là đàn ông hay đàn bà.
Lối văn xuôi trong Những khai vị từ Đức Liên Hoa Sanh,
hình thức hỏi và đáp giữa Padmasambhava, Yeshe Tsogyal và các đệ tử thân thiết,
thì đồng nhất với điều được tìm thấy trong các kinh và các tantra, đặc biệt
trong chương mở đầu của chúng, phần "duyên khởi". Bạn thấy rằng hầu
hết Luật tạng về giới luật ở tu viện có được, là do Đức Phật được hỏi làm thế nào
để đối xử với sáu tín đồ phạm những tà hạnh. Sau khi trình bày câu chuyện về
việc làm sau chót của họ, Đức Phật chế định một giới luật mới bị cấm đoán đối
với một tu sĩ.
Một điểm khác là bạn rất khó tìm ra một kinh nào mà không
được thuyết để trả lời cho câu hỏi của ai đó. Đầu tiên một người hỏi Đức Phật
về vài đề tài và lời dạy được ban cho. Tương tự với loại chỉ dạy bằng miệng, nó
chỉ được ban cho để trả lời cho một thỉnh cầu. Các tantra được trình bày theo
cùng một kiểu: Nhân vật trung tâm của Mạn đà la lưu xuất ra một chúng bao
quanh, các thành viên của chúng thỉnh cầu lời chỉ dạy Mật thừa. Tóm lại, hình
thức hỏi đáp là cách kiểu truyền thống.
Có một lời tiên tri rằng: "Giáo lý của Phật sẽ lan rộng
xa hơn về phía Bắc". Nepal là phía bắc ấn Độ, và sau đó có phải Tây Tạng
là xa hơn về phía Bắc? Tôi không chắc những lời ấy xuất phát từ đâu, chúng có
thể từ một terma của Padmasambhava hay có thể được chính Đức Phật nói. Nhưng
chắc chắn tiên tri là có; tôi đã nghe nó từ Dzongsar Khyentse Rinpoche.
"Từ bây giờ Phật pháp sẽ lan rộng về phương Tây". Ngài nói.
Một ghi nhận khác, vì cả Đức Phật Thích Ca và Padmasambhava
xuất hiện bằng một tỷ hình tướng trong mỗi một tỷ hệ thống thế giới, tại sao
lại không thể có hoá thân của các Ngài trong mọi nước của thế giới này? Ai có thể
chắc chắn được có một nơi riêng rẽ nào mà những ban phước của Phật không thấu
đến? Dĩ nhiên chúng ta y cứ trên sách lịch sử cho ta biết ở đâu và khi nào Phật
giáo lan toả, nhưng tôi cảm thấy rằng hoạt động của Phật thì thấm nhuần khắp,
bao trùm toàn bộ thế giới chúng ta. Ví dụ, tôi thường được nghe nói rằng
Padmasambhava đã viếng thăm khắp xứ Tây Tạng và Kham, ban phước mỗi ngọn núi,
hang động, hồ và không bỏ sót chỗ nào, ngay nhỏ như một dấu chân ngựa. Thế thì
tại sao Ngài lại bỏ qua các chỗ khác trong thế giới này? Tất cả những giáo lý
từ Đức Phật dĩ nhiên là chân thật, nhưng chúng khác biệt theo cấp độ sự nhấn
mạnh được đặt vào nghĩa tương đối hay tuyệt đối. Mỗi cái đều quan trọng, theo
nghĩa mức độ tương đối hướng dẫn bởi phương tiện chỉ dạy về hạnh đúng, trong
khi mức độ tuyệt đối hoạt động qua sự chỉ dạy về cái thấy đúng. Những chỉ dạy
này có thể được ban cho trong hình thức lời khuyên bảo cốt lõi hay các chỉ dạy
bằng miệng súc tích.
Thường thường, được biết rằng người ta phải "đi xuống
với cái thấy từ trên", trong khi "đi lên với hạnh từ dưới". Đi
xuống với cái thấy từ ở trên nghĩa là nhận ra quang cảnh tổng quát, trọn vẹn về
Đại Toàn Thiện, trong khi đi lên với hạnh nghĩa là thực hành phù hợp tuỳ thuận
với tám thừa thấp. Trong bối cảnh Kim Cương thừa, điều này đặc biệt ám chỉ đến
sự tu hành mười chủ đề của tantra.
Để kết luận, các tuyển tập khác nhau những chỉ dạy của
Padmasambhava gồm các giáo huấn về cả cái thấy và hạnh. ý kiến của tôi là người
ta phải trình bày chính xác các lời chỉ dạy trong hình thức nguyên thuỷ của nó,
không thêm điều gì mà cũng không bớt điều gì. Ví dụ, nếu bạn bỏ qua những lời
chỉ dạy về cái thấy và chỉ trình bày các chỉ dạy về hạnh, lời của Padmasambhava
sẽ trở thành bất toàn. Trong chủ đích rốt ráo của cái thấy, bạn quả đã nghe
những câu nói như "không có nghiệp, không có thiện ác". Nhưng, xin
hãy hiểu những câu nói ấy trong bối cảnh đúng của chúng!.
Không có cái thấy, mọi chỉ dạy chỉ là cơ quyền, các giáo
huấn bên ngoài về thái độ. Nếu bạn mất cái thấy trong hạnh, không bao giờ có cơ
hội nào cho giải thoát; nhưng nếu bạn mất hạnh trong cái thấy, bạn lạc vào sự
tin rằng không có tốt và xấu, cả hai đều trống không. Để hiểu Kim Cương thừa,
chúng ta phải học như thế nào các chỉ dạy Mật thừa được cất giấu trong sáu giới
hạn và bốn cách thức.
Nghĩa quyền nhắm vào hạnh, trong khi nghĩa thực bao gồm cái
thấy. Như Milarepa nói: "Tự hành xử sự một cách ngu dại với cái thấy quyền
cơ, bạn mất cơ hội để chứng ngộ thật nghĩa".
Tulku Urgyen Rinpoche nói.
Chùa Động Asura, tháng Mười, 1993
Chúc
thư đầu nhọn hạt ngọc
Lời khai thị này được nói cho
Yeshe
Tsogyal
Ta, vị thầy Sanh Từ Hoa Sen của Uddiyana,
Tu hành giáo pháp vì sự lợi lạc cho chính mình và người
khác.
Đến phía đông của Toà Kim Cương.
Ta nghiên cứu và uyên bác trong lời dạy Kinh điển.
Đến phía nam, phía tây và phía bắc
Ta nghiên cứu các bộ Luật, Luận,
Và giáo lý Ba la mật đa.
ở bờ Hasudhara, Ta nghiên cứu Kriya.
Trong xứ sở Uddiyana Ta nghiên cứu Yoga.
Trong đất nước Zahor, Ta nghiên cứu hai phần của Tantra.
Trong xứ sở Jah, Ta nghiên cứu Kilaya.
Trong đất nước Singha, Ta nghiên cứu Hayagriva.
Trong xứ sở Marutsey, Ta nghiên cứu Mamo.
ở Nepal, Ta nghiên cứu Yamantaka.
ở Toà Kim Cương, Ta nghiên cứu Amrita.
Bốn nhóm Tantra Cha và Tantra Mẹ,
Gồm cả Guhyasamja,
Ta nghiên cứu đến uyên thâm trong xử sở Jala.
Đại Toàn Thiện Ta học từ tâm giác bổn nhiên của Ta.
Ta đã chứng ngộ rằng mọi hiện tượng đều như mộng, như ảo.
Trong xứ sở Tây Tạng, Ta đã cử hành những hoạt động rộng lớn
cho lợi lạc của chúng sanh.
Trong thời đại thoái hoá,
Ta sẽ làm lợi lạc cho mọi người.
Bởi thế, Ta cất giấu vô số kho tàng Terma
Chúng sẽ gặp được người tiền định.
Thật may mắn, phước đức cho tất cả ai tiếp xúc được với các
terma này.
Hãy làm tròn mệnh lệnh của Liên Hoa Sanh!
Ngài nói như thế.
Emaho! Vào thời chót của thời kỳ này, các kho tàng terma của
Ta sẽ nở rộ ở xứ tuyết Tây Tạng. Hãy nghe đây! Tất cả các người sẽ theo lời chỉ
dạy của Ta vào thời gian đó!
Khó hiểu thấu bản tánh Ati Yoga của Đại Toàn Thiện. Thế nên,
hãy tu hành trong đó! Bản tánh này là trạng thái tỉnh giác của tâm. Dầu cho
thân bạn vẫn còn là con người, tâm bạn đạt đến mức độ Phật tánh.
Bất kể các giáo lý Đại Toàn Thiện có thể sâu bao nhiêu, rộng
bao nhiêu, trùm khắp bao nhiêu, thì tất cả chúng đều gồm trong điều này: Chớ
thiền định về hay khởi tạo một thứ gì dầu nhỏ như vi trần và chớ phóng dật dầu
cho một sát na(1).
Có một sự nguy hiểm là người ta không hiểu được điều đó, rồi
dùng câu nói vô vị thế này: "Thật đúng là không cần thiền định!" Tâm
họ rồi vẫn bị trói buộc bởi các tán động của công việc thế gian sanh tử, nhưng
khi có người nào hiểu thấu, chứng ngộ bản tánh của không-thiền-định, người ấy
sẽ thấy sanh tử và Niết bàn là bình đằng. Khi chứng ngộ xảy ra, bạn sẽ thực sự
giải thoát khỏi sanh tử, các vọng niệm phiền não tự nhiên chìm lắng mất và trở
thành tánh Giác bổn nguyên. Dùng một thứ hiểu biết mà không giảm bớt được phiền
não thì có ích gì!
Tuy nhiên, có nhiều người đắm chìm vào năm độc khi không
thiền định. Họ không thấu hiểu chân tánh và chắc chắn sẽ vào địa ngục.
[1]
Chớ có truyền dạy một cái thấy mà bạn chưa chứng đắc! Vì cái
thấy thì vắng dứt mọi sự thấy, nên bản chất của tâm là một sự mở rộng bao la
của tánh Không. Vì thiền là không thiền, hãy buông thả cho kinh nghiệm của mình
tự do thoát khỏi mọi ngưng trụ. Vì đức hạnh là vô hạnh, nó chính là tánh bổn
nhiên không tạo tác. Vì quả thì không bỏ mặc hay hoàn thành, nó là
Pháp Thân của Đại Lạc. Bốn câu này là lời từ trái tim
Ta. Ngược lại với chúng, bạn không thể nào khám phá bản tánh của Ati Yoga.
Vào lúc chấm dứt của thời kỳ tương lai, sẽ có nhiều hành giả
hư hỏng, họ xem Pháp là chuyện mua bán. Vào thời đó, tất cả những ai tuân theo
lời của Ta, chớ từ bỏ thập thiện.
Dầu cho sự chứng ngộ của bạn đồng đẳng với sự chứng ngộ của
chư Phật, hãy cúng dường Tam Bảo.
Dầu cho bạn chế phục được tâm mình, hãy hướng những mục tiêu
sâu xa của bạn về Giáo Pháp. Dẫu cho bản tánh của Đại Toàn Thiện là tối thượng,
chớ xem thường các giáo lý khác.
Dầu cho bạn thấu hiểu rằng Phật và chúng sanh là bình đẳng,
hãy ôm trùm t,ất cả chúng sanh bằng Tâm Đại Bi.
Dầu cho các con đường và các địa là vượt khỏi sự tu hành và
hành trình, chớ từ bỏ sự tịnh hoá các che chướng ngăn ngại qua các hoạt động
thuộc về Giáo Pháp.
Dầu cho công đức là vượt khỏi sự thu gom, chớ cắt đứt nguồn
gốc của đức hạnh hữu vi.
Dầu cho tâm bạn thì vượt lên sống và chết, nhưng thân huyễn
hoá này đang chết. Thế nên, hãy thực hành trong khi nhớ về cái chết.
Dầu cho bạn kinh nghiệm pháp tánh tự do khỏi tư tưởng, hay
duy trì Bồ đề tâm.
Dầu cho bạn đã đạt đến kết quả của Pháp thân, hãy giữ sự
tương thông với thần bổn tôn.
Dầu cho Pháp thân là không ở chỗ nào khác, hãy tìm ra thật
nghĩa.
Dầu cho Phật tánh không ở đâu khác, hãy hồi hướng mọi công
đức bạn làm về giác ngộ vô thượng.
Dầu cho bất kỳ thứ gì kinh nghiệm được chính là tánh Giác
bổn nguyên, chớ để tâm bạn lạc vào sanh tử.
Dầu cho bản tánh của tâm bạn là Phật, hãy luôn luôn tôn thờ
hoá thần hay thầy bạn.
Dầu cho bạn đã chứng ngộ bản tánh của Đại Toàn Thiện, chớ bỏ
vị thần bổn tôn.
Những người nào, thay vì làm như thế, lại nói những lời khoa
trương một cách dại dột chỉ là làm hại cho Tam bảo và sẽ không tìm được một
khoảnh khắc hạnh phúc.
Vị Guru nói: Con người không nghĩ về cái chết. Đời người
giống như một đống trấu hay một cái lông chim trên đèo núi. Tử thần đến thình
lình như một trận tuyết lở hay một cơn bão. Phiền não giống như rơm bắt lửa.
Cuộc đời bạn giảm dần như bóng mặt trời lặn.
Tất cả chúng sanh của ba cõi đều tự vướng mắc vào con rắn
đen của sân do chính mình tự tạo. Họ tự đâm thủng mình bằng đôi sừng con bò đỏ
của tham do mình tự tạo. Họ tự làm tối tăm bằng bóng tối dày đặc của si do mình
tạo lấy. Họ tự cột mình vào vách đá kiêu mạn do mình tạo ra. Họ tự làm hỏng
mình với con chó sói tham lam do mình tạo lấy. Người ta không nhận rằng họ
không thể trốn thoát năm nhiễm ô nguy hiểm của phiền não. Họ làm mọi thứ để
kinh nghiệm những lạc thú sanh tử của ngay đời này.
Đời này đi qua trong một phút giây ngắn ngủi, mà sanh tử thì
vô cùng. Bạn sẽ làm gì trong đời sau? Hơn nữa, sự dài ngắn của đời này thì
không chắc chắn, thời gian chết thì không thể định được và giống như một tử tội
bị đưa đến giàn xử tử, bạn đi đến gần cái chết trong từng bước chân.
Mọi chúng sanh đều vô thường và chết. Bạn đã từng nghe về
những người đã chết trong quá khứ! Bạn đã thấy họ hàng mình chết! Bạn có nhận
ra mình đang già! Và rồi, thay vì thực hành Giáo pháp, bạn quên những buồn
phiền quá khứ. Thay vì sợ khổ mai sau, bạn không biết đến sự khổ đau của các
cõi thấp.
Bị săn đuổi bởi cái hoàn cảnh thất thường, bị cột trói bằng
sợi thừng của chấp trụ dị nguyên, kiệt lực vì dòng sông tham ái, bị nhốt giam
trong mạng lưới sanh tử, bị còng chặt chẽ vào nghiệp quả đã chín tới. Ngay khi
các tin tức của Pháp đến với bạn, bạn vẫn còn bám lấy các trò tiêu khiển và hờ
hững. Có phải cái chết không xảy ra cho một người như bạn? Ta thương xót cho
mọi chúng sanh suy nghĩ như lối đó.
Vị Guru nói: Khi giữ trong tâm sự thống khổ của cái chết,
thì rõ ràng mọi hoạt động đều là nguyên nhân của khổ, vậy hãy vứt chúng đi. Cắt
đứt mọi dây trói, dầy là nhỏ nhất và thiền định trong đơn độc về phương thuốc
tánh Không. Không có bất cứ điều gì có thể giúp bạn vào lúc chết. Thế nên, hãy
thực hành Pháp, vì đó là người đồng hành tốt nhất của bạn.
Thầy của bạn và Tam Bảo là sự hộ tống tốt nhất. Thế nên, hãy
khẩn thiết quy y. Thực hành Pháp là cái giúp cho trạng thái tâm bạn tốt nhất.
Hãy nhớ điều bạn đã nghe, vì Pháp là đáng tin cậy nhất.
Bất
kể giáo lý nào bạn thực hành, hãy bỏ đi buồn ngủ, hôn trầm, lười lĩnh. Trái
lại, hãy trang bị vũ khí chuyên cần. Bất kể giáo lý nào bạn đã hiểu, tự mình
chớ lìa khỏi ý nghĩa của nó.
Padmasambhava nói: Hãy làm như vầy nếu bạn muốn thực hành
chánh pháp! Giữ lời dạy của thầy trong tâm. Chớ ý niệm hoá kinh nghiệm của bạn,
vì nó chắc chắn làm cho bạn bị ràng buộc hay cáu kỉnh. Ngày và đêm, hãy nhìn
vào tâm mình. Nếu dòng tâm thức có chứa một hạnh xấu nào, hãy từ bỏ nó từ sâu
thẳm lòng mình và theo đuổi hạnh tốt.
Hơn nữa, khi bạn thấy người khác mắc phạm điều xấu, hãy có
tâm bi với họ. Chắc chắn có thể là bạn cảm thấy thích hay ghét một vài đối
tượng của giác quan, hãy vứt nó đi. Khi cảm thấy dính kết với gì hấp dẫn, hay
ác cảm với cái gì ghê tởm, hãy hiểu rằng đấy là ảo giác của tâm bạn, chúng chỉ
là huyễn hoá.
Khi bạn nghe những lời thích thú hay không thích thú, hãy
hiểu chúng là tiếng vang trống không, như tiếng dội. Khi bạn gặp sự bất hạnh
ngặt nghèo hay thống khổ, hãy hiểu đó là chuyện xảy ra tạm thời, một kinh
nghiệm không thật. Hãy nhận ra rằng tự tánh chẳng bao giờ cách lìa bạn.
Có được thân người là cực kỳ khó. Thế nên, thật là ngu mê
không hiểu biết Pháp một khi đã tìm được nó. Chỉ có Pháp mới cứu được bạn, mọi
thứ khác đều là sự lừa dối của thế gian.
Vị Guru lại nói: Người với nghiệp thấp kém nhắm đến sự lớn
lao, phù phiếm của thế giới này và hành động không nghĩ đến nghiệp quả. Sự
thống khổ về sau sẽ kéo dài hơn là hiện tại. Thế nên, hãy từ ái và bi mẫn đối
với chúng sanh ba cõi. Hãy thường trực tương thông với tâm giác của Bồ đề tâm.
Hãy từ bỏ mười nghiệp bắt thiện và nuôi dưỡng mười thiện nghiệp.
Chớ nhìn bất kỳ chúng sanh nào như kẻ thù của mình, làm thế
chỉ là vọng tưởng của tâm bạn. Chớ tìm kiếm thức ăn và nước uống bằng nói dối
và lừa lọc. Dầu bụng bạn có sẽ đầy trong kiếp này, nó sẽ rất nặng nề trong kiếp
tới.
Chớ lao vào làm ăn và lợi lộc, nói chung nó chỉ là trò tiêu
khiển giết thời giờ cho cả bạn và người khác. Chớ xem sự giàu có là quan trọng,
vì nó là kẻ thù của thiền định và thực hành giáo pháp.
Chỉ chú ý vào thức ăn là một nguyên nhân phóng tâm, hãy giữ
thực phẩm cho hành thiền chỉ đủ để duy trì thân mạng. Khi bạn sống tách biệt,
tâm bạn cũng sẽ như vậy. Bỏ đi sự nói chuyện vô ích và nói ít thôi. Nếu bạn làm
tổn hại tình cảm người khác, cả hai đều tạo nghiệp xấu.
Tổng quát, mọi chúng sanh không trừ ai đều là cha mẹ của
bạn. Thế nên, đừng cho phép mình bị bám dính hay ghét bỏ, hãy duy trì một tâm
trạng bình an. Bỏ đi giận dữ và lời thô bạo, thay vào đó nói với một khuôn mặt
tươi cười.
Lòng tôi của cha mẹ không thể đáp đền, dầu bạn có hy sinh
đời mình, thế nên hãy tôn trọng trong tư tưởng, lời nói và hành vi. Đức hạnh và
cái xấu đều đến từ đối tượng được thấy biết và các mối liên lạc, thế nên chớ
giữ mối liên lạc với người làm ác. Chớ ở một nơi mà người ta hiềm khích với
bạn, nó thúc đẩy thêm giận dữ và tham muốn. Nếu bạn làm thế, nó chỉ tăng thêm
phiền não trong bạn và trong những người khác.
Hãy ở chỗ nào mà tâm trạng bạn thoải mái và sự thực hành
Pháp của bạn tiến bộ một cách tự động. Cư trú chỗ nào có sự ham thích hay ác
cảm nhiều chỉ làm loạn tâm; hãy ở nơi mà sự thực hành Pháp tiến triển. Nếu bạn
kiêu mạn, công đức bạn bị giảm, thế nên hãy bỏ đi kiêu căng và ngã mạn. Nếu bạn
trở nên chán nản và thất vọng, hãy tự an ủi mình và tự làm cố vấn cho mình; hãy
dấn thân trở lại vào con đường.
Vị Guru nói: Nếu bạn muốn thật sự thực hành Pháp, hãy làm
điều đức hạnh, dầu chỉ là việc nhỏ nhất. Đại dương bao la được làm từ những
giọt nước; ngay cả núi Tu Di và bốn châu lục cũng được tạo ra từ những hạt vi
trần nhỏ nhoi.
Bất kể bạn cho đi thứ gì dầu nhỏ như một hạt mè; nếu bạn cho
với tâm bi và Bồ đề tâm, thì bạn đã thành tựu trăm ngàn lần phước đức. Nếu bạn
cho mà không có quyết định của Bồ đề tâm, phước đức của bạn sẽ giảm đi dầu cho
cả ngựa, hay lâu dài.
Chớ dung dưỡng những người bạn tâng bốc và không thật lòng.
Hãy chân thành trong tư tưởng và việc làm. Nền tảng của sự thực hành Pháp đặt
nơi samaya, đại bi và Bồ đề tâm thanh tịnh. Các samaya của Mật thừa, các điều
luật của Bồ tát và các giới luật của Thanh văn đều bao hàm trong ấy.
Vị Guru nói: Hãy tiêu dùng thực phẩm và của cải vào việc đức
hạnh. Con người nói: "Cần của cải cho lúc chết". Nhưng khi bạn bị tra
khỏi bởi bệnh tật, bạn không thể chia phần sự đau đớn bằng tiền bạc, dầu có
đông người giúp đỡ bạn và cơn đau của bạn không lớn hơn, nếu bạn không có gì
cả.
Vào lúc đó chẳng khác nhau gì hoặc là bạn có người trợ giúp,
người hầu, bà con và của cải hay không. Tất cả đều là nguyên nhân của chấp níu.
Chấp bám trói buộc bạn, dầu là chấp bám vào hoá thần hay vào Pháp. Sự dính bám
của người giàu vào trăm ngàn lượng vàng và sự dính bám của người nghèo vào kim
chỉ của nó đều trói buộc như nhau. Hãy quăng bỏ sự dính bám, nó ngăn chặn cánh
cửa giải thoát.
Khi bạn chết, cũng như nhau hoặc là thân thể bạn được hoả
thiêu bằng trầm hương hay để cho chim và chó ăn ở nơi không người. Bạn ra đi,
cùng với nghiệp tốt hay xấu đã mắc phải khi còn sống. Danh tiếng tốt hay xấu,
kho lẫm và giàu có, quý nhân giúp đỡ và người hầu hạ đều bỏ lại phía sau.
Vào ngày bạn chết, bạn sẽ cần một vị thầy cao cả, thế nên
hãy kiếm một vị thầy. Không có thầy, bạn không thể hiểu biết giác ngộ, thế nên
hãy theo một vị thầy có phẩm chất và hoàn thành bất cứ thứ gì ngài yêu cầu.
Vị Guru lại nói: Nghe đây, các người may mắn của các thời
sau tuân theo lời dạy Padmakara! Trước tiên, khi bước vào con đường, bạn phải
chuyên cần. Vì rất lâu trong quá khứ, bạn đã mãi mê trong kinh nghiệm mê lầm;
từ vô số kiếp, bất kỳ điều gì bạn làm đều lạc trong mê vọng. Hãy cắt đứt cái mê
vọng này, ngay khi bạn có được một thân người.
Tất cả chúng sanh đều bị che ám bởi bóng tối của căn bản vô
minh. Khi kinh nghiệm danh tướng nhị nguyên khởi lên, nó được làm vững chắc
thêm bởi sự trụ tướng phân biệt. Dầu bất cứ điều gì họ làm, họ đều mắc vào các
việc làm đáng thương. Nhà ngục mê huyễn này của sáu loại chúng sanh thật là
siết chặt!
Cực kỳ khó khăn để có được một thân người. Có được thân
người, chỉ có ít người nghe được danh hiệu Phật. Sau khi nghe được, rất ít
người có được niềm tin. Và ngay dù có được niềm tin, sau khi đi vào giáo pháp,
nhiều người giống như những con thú ương ngạnh phá vỡ các lời thệ nguyện và
giới luật, rồi sa đoạ. Thấy các chúng sanh đó, các Bồ tát thất vọng và Ta,
Padmakara buồn rầu.
Tsogya! ở một nơi mà giáo lý của Phật hiện diện, ngay người
có được một thân người hoàn hảo, đã có vô số đời tích chứa công đức vô biên,
nhưng họ vẫn còn đầy đủ nghiệp quả của sáu loài.
Vài người trong số đó, nghe được những phẩm tính của Phật,
vẫn bốc cháy bởi tham đắm và giận dữ, lo sợ rằng người khác cũng sẽ quan tâm
đến. Đã thành tín đồ theo Phật pháp, họ lo sợ rằng sanh tử kia sẽ cạn kiệt.
Loại tham đắm và giận dữ này là chủng tử cho địa ngục. Trong các đời tới, họ
sinh vào các nơi chốn chẳng bao giờ nghe đến danh Tam Bảo.
Các người đang sống hay sẽ xuất hiện trong tương lai và
người nghe lời của Padmakara, đây là điều bạn nên làm, để cho có được lợi lạc
khi đã được thân người, bạn cần giáo pháp cao cả. Người bám níu, khát khao uy
tín và danh vọng hơn là thực hành Pháp, sẽ thuộc về mức độ cao nhất ở trong
loài thú.
Nếu bạn nghi ngờ điều này thì hãy suy nghĩ kỹ càng: Lo cho
thân này được tiện nghi thoải mái, lo cho nó được trường tồn, lo người khác
thắng mình, lo cho người thân được lợi thế, lo người thù ghét mình trả đũa.
Những thứ ấy mọi người thế gian đều có đủ. Chim trên trời, chuột trong hang,
kiến sống dưới lỗ, tất cả đều có giống như vậy. Tất cả chúng sanh đều có như
vậy.
Có
ít kẻ thù hơn những người khác chỉ là mức độ cao nhất trong loài vật. Để thực
hành Pháp, bạn phải vất bỏ sự quyến luyến vào một xứ sở. Quê hương bạn là nơi
sanh quán của dính bám và sân hận.
Hãy giữ thực phẩm, của cải đủ dùng để ăn và mang đi. Làm như
thế cho đến khi bạn vất bỏ được đắm níu vào thức ăn và đồ mặc. Chớ giữ tài sản,
nó sẽ trở thành một sự phóng tâm. Hãy tìm một nơi hoang dã không người lui tới.
Giữ thực phẩm đủ duy trì mạng sống, sống nơi cô đơn ngoài mọi ràng buộc bè bạn.
Trước hết, làm trong sạch các nghiệp xấu. Tiếp theo, nhìn
vào trong tâm bạn: Sự kiện rằng trạng thái bổn nhiên của tâm không kéo dài mà
phóng xuất các niệm, bằng chứng nó là trống không. Sự xảy ra không ngừng các
niệm tưởng lưu xuất chính là cái sáng chiếu thấu biết của nó. Chớ theo đuổi sự
lưu xuất của các niệm. Chớ bám vào phương diện chiếu sáng của nó. Bằng cách
buông xả chú tâm và nhận biết yếu tính của nó, tánh Giác bổn nhiên mọc lên soi
tỏ như là Pháp thân.
Thỉnh thoảng, làm những thực hành để tịnh hoá các chướng
ngại và làm trợ giúp nâng cao. Nếu bạn có thể theo chúc thư của Ta theo lối
này, bạn sẽ đạt đến trạng thái Vajradhara trong chỉ đời này.
Tsogyal! Có người nào đó với bề ngoài nâu sậm và dữ tợn sẽ
xuất hiện gần thời chót các giáo lý của Phật Thích Ca. Để cho người đó, hãy cất
giấu các lời này của Ta trong một cái tráp bằng da tê giác màu nâu.
Như thế Ngài đã nói.
Chúc
thư của Đạo sư Liên Hoa Sanh xứ Uddiyana có tên là Đầu Nhọn Hạt Ngọc hoàn thành
ở đây.
Nó được khám phá bởi Rigdzin Godem, vị Vidyadhara với lông
chim kên kên, từ kho tàng màu trắng phương Đông.
Samaya,
ấn, ấn.
Mong
là tốt lành.
Mong
là tốt lành.
Mong
là tốt lành.
Sarva
Mangalam.
Lời
khai thị cho
Trisong Deutsen
Emaho! Đạo sư Padmasambhava được vua Trisong Deutsen mời để
thuần hoá địa điểm và xây dựng chùa Samye, có tên là "Sự Thành Tựu Viên
Mãn Tự Nhiên Rạng Rỡ của Những Nguyện Vọng Vô Biên". Về sau, khi xong lễ
tôn phong, vua mời Đạo sư, người mặc một áo choàng thêu màu nâu đậm, ngồi trên
một ngai, trải đệm lụa trong một căn phòng trung tâm trên lầu. Vua dâng cho Đạo
sư rượu vang làm từ gạo và đặt những cốc đầy vàng, bạc ở hai bên tay Ngài. Nhà
vua dâng cúng một số đồ vật và đặt trên một dĩa mạn đà la bằng vàng, một số hoa
bằng bảy báu. Vua cởi ra từ cổ mình một món đồ trang sức lam ngọc tên là "Maru
Rực Rỡ" và đặt lên như là tượng trưng cho mặt trời và một món đồ khác có
tên là "Kenru Kongchok" như là tượng trưng của mặt trăng. Vua gom các
thứ quý báu khác thêm vào trên dĩa vàng để tượng trưng cho núi Tu Di và bốn
châu lục, dâng cho bậc Đạo sư với lời tán thán:
"Không dựa vào cha mẹ, hoá thân của Ngài xuất hiện
trong một hoa sen.
Nó hiện hữu để ảnh hưởng lên chúng sanh, như là thân Kim
cang cắt đứt dòng sanh tử.
Từ sự vô hạn của chứng ngộ, Ngài phát lộ Tâm Phật cho người
xứng đáng.
Thiện xảo hoá độ với nhiều phương tiện, Ngài trói buộc các
vị thần kiêu căng và quỷ dữ dưới lời tuyên thệ.
Với hoạt động toàn hảo của ba thân, hoá thân Ngài vượt quá
hoá thân của tất cả Phật.
Tôi xinh đảnh lễ hình tướng hoa sen của Kim Cương Totreng và
ngợi ca Ngài với lòng sùng mộ.
Dù Ngài không đắm trước khi hưởng thọ năm dục,
Ngài từ bi chấp nhận chúng để cho mọi chúng sanh có thể tạo
ra phước đức.
Xin hãy đoái tưởng đến con, khi con cầu xin Ngài ban cho ý
nghĩa sâu xa tối tượng!".
Đạo sư trả lời: "Thưa Ngài, Ngài yêu thích hình tướng
hiện thời của tôi?" Nhà vua trả lời: "Vâng, thưa Thầy". Và tiếp
tục: "Giải thoát khỏi bệnh hoạn của bốn đại, siêu việt cả sanh và tử.
Ngài sở hữu đại bi siêu xuất để làm việc vì lợi lạc của
chúng sanh.
Tâm Ngài thường trụ như tự tánh của Pháp giới tánh;
Vâng, tôi yêu thích hình tướng của Ngài, bậc bảo hộ cho
chúng sanh!".
Thế rồi Đạo sư nói:
"Ngài hãy biết rằng vị Thầy thì quan trọng hơn
Cả ngàn vị Phật của kiếp này
Tại sao thế? Bởi vì tất cả Phật của kiếp này
Đều xuất hiện sau khi đã theo một vị Thầy.
Trước khi có một vị thầy
Thì danh từ "Chư Phật" chưa hiện hữu.
Cũng có nói rằng:
Vị Thầy là Phật, vị Thầy là Pháp,
Cũng thế vị Thầy là Tăng;
Như thế vị Thầy là gốc của Tam Bảo.
Hãy bỏ qua một bên mọi phụng thờ khác,
Mà chuyên cần phụng sự Thầy của Ngài.
Tuỳ hỷ người, Ngài sẽ nhận được mọi chứng đắc Ngài mong
muốn".
Rồi
nhà vua thưa hỏi Padmasambhava: Thưa Đại sư, khi cố gắng thành tựu quả là Phật
tánh, từ nhân là một chúng sanh hữu tình, trước hết cái thấy của sự chứng ngộ
là cực kỳ quan trọng. Có được "cái thấy của sự chứng ngộ" có nghĩa là
gì?
Đức Thầy trả lời: Tột đỉnh của mọi cái thấy (kiến) là tinh
tuý Bồ đề tâm của tâm giác ngộ. Tất cả hàng tỷ vũ trụ, tất cả Như Lai mười
phương và mọi chúng sanh trong ba cõi đều cùng một bản tính, bao hàm trong tinh
tuý Bồ đề tâm giác ngộ này. "Tâm" ở đây nghĩa là sự đa dạng khởi từ
cái vô sanh, vô tác.
Vâng, ngài có thể hỏi rằng: "Đâu là sự khác biệt giữa
chư Phật và các chúng sanh?". Đó không gì khác hơn là tâm giác ngộ hay
không giác ngộ. Tính chất của trạng thái giác ngộ của một vị Phật thường hằng
hiện diện trong Ngài, nhưng Ngài lại không nhận ra nó. Không nhận biết tự tâm,
các chứng sanh luân lạc vào sáu đường sanh tử. Rồi Ngài có thể hỏi: "Thế
nào là con đường chứng ngộ tự tâm?". Điều ấy đã được dạy rằng, Ngài cần
lời dạy miệng của một vị Thầy.
Về mặt này, "Tâm" là cái suy nghĩ và nhận biết,
thật vậy, có cái gì đó đang kinh nghiệm. Chớ tìm tâm này ở bên ngoài, hãy nhìn
vào trong! Hãy để cho tâm tìm kiếm chính nó! Hãy xác chứng bản tính của tâm là thế
nào!
Trước tiên, từ đâu tâm sanh khởi? Ngay giờ đây, nó dừng ở
đâu? Cuối cùng, hãy nhìn nó đi đâu? Khi tâm Ngài nhìn vào chính nó, nó thấy
rằng không có chỗ nào từ đó nó khởi sanh, dừng trụ hay đi mất. Không có sự giải
thích nào về "nó là như thế nào". Tâm được khám phá là chẳng phải cái
gì ở ngoài hay ở trong. Nó không có ai đang nhìn, nó không phải là hành động
nhìn. Nó được chứng nghiệm như là một trạng thái tỉnh giác bổn nguyên không có
trung tâm cũng không có chu vi, một sự biến mãn bao la trống không và tự do một
cách nguyên thuỷ. Sự tỉnh giác bổn nguyên này là nội tại và tự tại. Nó không
phải được tạo ra lúc bây giờ, mà vốn sẵn hiện diện trong chính Ngài từ vô thuỷ.
Hãy xác quyết rằng: Cái thấy chính là nhận ra xác thực Cái ấy! "Có được
niềm tin" vào điều này có nghĩa là nhận biết rằng cũng giống như hư không,
tâm vốn hiện hữu sẵn đủ từ vô thuỷ. Như mặt trời, nó giải thoát khỏi bất kỳ căn
bản vô minh tối ám nào. Như hoa sen, nó chẳng nhiễm ô bởi nghiệp tội. Như vàng
ròng, nó không biến hoại bản chất. Như đại dương, nó bất động. Như một dòng
sông, nó không ngừng dứt. Như núi Tu Di, nó không đổi thay. Một khi Ngài nhận
biết (chứng ngộ) bản tánh chân thực của nó và làm vững vàng nó, điều ấy gọi là
"có được cái thấy của sự chứng ngộ".
Nhà vua hỏi: "Có được kinh nghiệm về thiền định"
là thế nào?
Đức thầy trả lời: Nghe đây, thưa Bệ hạ! "Có được kinh
nghiệm về thiền định" nghĩa là buông thả cho tâm ngài không thi thiết,
không suy bại và tươi mới. Hãy để tâm ngài an nghỉ trong trạng thái tự nhiên,
không câu thúc và tự do. Bằng cách không trụ tâm vào cái gì bên ngoài cũng
không tập trung bên trong, ngài ở nơi sự giải thoát khỏi mọi tiêu điểm. Trong
trạng thái an định vĩ đại này của tự tánh, hãy để cho tâm ngài dừng nghỉ không
động lay, cũng như ngọn lửa của một ngọn đèn sáp không chao động bởi gió.
Trong trạng thái này, các kinh nghiệm có thể xảy ra: Tâm
thức ngài có thể trở nên tràn trề, sáng tỏ hay dừng lại; lạc phúc, sáng rỡ hay
thoát khỏi tư tưởng; nó có thể cảm thấy mờ tối, không có điểm qui chiếu và
không hoà hợp với các cách thế của thế giới này. Nếu các kinh nghiệm này xảy
ra, chớ cho chúng một mối quan trọng đặc biệt nào, vì chúng chỉ là những kinh
nghiệm thoáng qua, nhất thời. Chớ trụ trước gì vào chúng! Đó gọi là "có
được kinh nghiệm về thiền định".
Nhà vua hỏi: "Có được hạnh, vì bình thản" là nghĩa
thế nào?
Đức thầy trả lời: "Hạnh" ở đây nghĩa là không gián
đoạn trong thiền định, không tán thất tâm; dầu cho là không có cái gì để thiền
định về cả. Như dòng chảy không ngừng của một con sông, ngài nhớ (niệm) luôn
luôn qua mọi tình huống, đi, đứng, nằm, ngồi. "Vị bình thản" nghĩa là
ôm trọn lấy cái gì ngài thấy, hai cái gì cảm thọ của năm giác quan xảy đến, với
sự nhận biết rõ ràng về tự tánh ngài vốn giải thoát mọi kết dính hay bám níu.
Chớ nhận hay bỏ bất cứ điều gì, giống như đến một hòn đảo toàn vàng quý. Đây
gọi là "Có được hạnh, vị bình thản".
Nhà vua lại hỏi: "Cái gì làm cho người ta vượt qua hẻm
núi nguy hiểm của động niệm?".
Đức Thầy trả lời: Khi tư tưởng ý niệm xảy ra đang lúc thiền
định, bất kỳ cái gì sanh khởi đều là từ tâm của chính mình. Bởi vì tâm không có
tự tánh, nên tư tưởng chính nó cũng trống rỗng mọi thực thể. Giống như một đám
mây nảy sinh giữa không gian và biến mất trở lại trong không gian, niệm khởi
trong tâm và lại tan biến trong tâm. Trong bản chất, tư tưởng ý niệm là pháp
tánh xưa nay.
"Vượt qua hẻm núi nguy hiểm" nghĩa là khi tâm động
thành đủ thứ tư tưởng, ngài nên hướng sự chú ý vào chính tâm này. Như một tên
trộm đi vào một căn nhà trống, những tư tưởng rỗng không, không chướng ngại gì
cho một tâm trống rỗng. Đó gọi là "vượt qua hẻm núi hiểm nguy của động
niệm".
Nhà
vua hỏi Đạo sư: Như thế nào người ta "có được sự tin chắc không đổi của
Quả?".
Đức Thầy trả lời: Hãy nghe điều này, thưa Bệ hạ! Tâm giác
của Bồ đề tâm không sinh ra từ nguyên nhân nào, cũng không tiêu diệt bởi hoàn
cảnh nào. Nó không được tạo ra bởi chư Phật, trí huệ cũng không được sản xuất
ra bởi các chứng sanh thông thái. Nó vốn sẵn đủ, hiện diện nơi ngài như là sở
hữu tự nhiên của ngài. Khi qua lời chỉ dạy của Thầy, ngài nhận ra nó, từ đó tâm
là tổ tiên của chư Phật, cũng như sự nhận ra một người mà ngài đã từng biết.
Tất cả chư Phật ba đời đạt đến giác ngộ trong sự tương tục
thể hiện Cái Này, sau khi đạt đến sự vững chắc an định, giống như một hoàng tử
lên ngôi vua. Tính giác với cái vốn hiện diện từ vô thuỷ, thoát khỏi mọi sợ hãi
và đe doạ, gọi là "có được sự tin chắc bất biến của Quả".
Nhà vua hỏi Đạo sư: Cái gì làm ngài "cắt đứt những giới
hạn của lầm lạc và lỗi lầm?"
Đức Thầy trả lời: Thưa ngài, có hy vọng hay lo sợ là do lỗi
không thấu hiểu, hiện thực được cái thấy. Tâm Bồ đề tánh Giác không hy vọng có
được giác ngộ cũng không lo sợ rơi vào trạng thái chúng sanh.
Bám nắm ý niệm có người tham thiền và có đối tượng tham
thiền, là do lỗi không cắt đứt các phóng tưởng của tâm nhân ngã. Tự tánh pháp
tánh của ngài, tự do khỏi mọi tạo tác, không có đối tượng nào để thiền định về,
không có một ai đang thiền định, hay bất kỳ loại thiền định nào để trau dồi.
Nhận lấy hay chối bỏ là do lỗi không cắt đứt sự dính gắn và
trụ trước. Bản tánh trống không và tự do của tâm không có cái gì để thành tựu
cho ngài bám nắm, cũng không có cái gì phải chối bỏ cho ngài có thể hiềm ghét.
Nó không có tốt cần phải nhận lấy, cũng không có xấu để phải khước từ.
Bị bám dính vào các sở hữu là do lỗi không hiểu thực hành là
thế nào. Thực hành đối với mọi sự vật là tự do khỏi mọi tiêu điểm và trụ định,
hiểu rằng sự bám níu và chấp trước đều không có nền tảng, gốc rễ.
Cô đọng mọi điều trên vào trong một câu: Cái thấy là thoát
khỏi quan niệm phân biệt(1), thiền định là không trụ vào cái gì cả, kinh nghiệm
là giải thoát khỏi sự hưởng nếm mùi vị và quả là vượt ngoài chứng đắc. Chư Phật
ba[1] đời đã không dạy, đang không dạy và sẽ không dạy điều gì khác hơn cái
này. Đó là gọi "cắt đứt những giới hạn của lầm lạc và lỗi lầm".
Nhà vua hỏi Đạo sư: "Xoá đi lỗi lầm của tà kiến"
nghĩa là thế nào?
Đức thầy trả lời: Dầu cho ngài đã rõ biết tâm mình là Phật,
chớ có tự bỏ Thầy mình! Dầu cho ngài đã chứng ngộ các hình tướng đều là tâm,
chớ ngưng nghỉ công đức dầu hữu hạn và bị lệ thuộc nhân duyên! Dầu cho ngài
không mong cầu Phật tánh, hãy tôn vinh Tam Bảo cao cả! Dầu cho ngài không sợ
sanh tử, hãy không có ngay cả một hạnh xấu nhỏ nhất! Dầu cho ngài đạt được niềm
tin bất biến vào tự tánh mình, chớ xem kinh nghiệm những tính chất của đại
định, những tri giác cấp cao các thứ, hãy vất bỏ kiêu căng và tự phụ.
Dầu cho ngài đã chứng nghiệm thấu suốt rằng sanh tử và Niết
bàn là bất nhị, chớ ngừng hưng vận từ bi đối với mọi chúng sanh!
Rồi nhà vua lại hỏi: "Đạt được sự xác tín" có
nghĩa là gì?
Đức Thầy trả lời: Đạt được xác tín rằng từ vô thuỷ tự tâm
ngài chính là tánh Giác của Phật tánh. Đạt được xác tín rằng mọi hiện tượng đều
là trò tự bày hiện huyễn hoá của tâm ngài. Đạt được xác tín rằng Quả là đang
hiện diện trong ngài và không phải tìm ở đâu khác. Đạt được xác tín rằng Thầy
ngài là vị Phật trong hình tướng con người. Đạt được xác tín rằng bản chất của
cái thấy (kiến) và thiền định (thiền) là sự thực hiện thành tựu của chư Phật.
Để đạt được niềm tin như thế ngài phải thực hành(1)!.
Nhà vua lại hỏi: "Có được sự truyền dạy bằng
miệng" là như thế nào?
Đức Thầy trả lời: Nhờ sự ban ơn, Phổ Hiền bày tỏ các lời bí
mật này vào tai của Vajrasattva. Vajrasattva rót chúng vào tai của Garab Dorje.
Garab Dorje giao phóng chúng vào trong tâm của Shri Singha.
Shri Singha ban chúng cho tôi, Padmasambhava. Trisong
Deutsen, hãy giữ chúng trong lõi của tâm ngài!(1).
Đạo sư dạy cho nhà vua: Thưa bệ hạ, từ phi ngài chứng ngộ
bản tánh vô sanh của Pháp tánh, dù cho ngài được sanh ra trong thân thể của một
quân vương, thì cuộc đời cũng qua đi như một cái bọt trong nước.
Trừ
phi ngài kinh nghiệm tự tánh bẩm sinh của Pháp tánh vốn siêu việt khỏi tư
tưởng, động niệm, ngài sẽ khổ đau khi vương quốc và quyền lực thế gian của
ngài, chúng cũng vô chất, vô tự tánh như một cái cầu vồng, nhạt nhoà và tan
biến.
Trừ phi ngài kết bạn với người ấy, tánh Giác tự tại; khi
ngài bỏ đời này, ngài sẽ không thể cắt đứt sự bám níu vào các hoàng hậu, người
hầu và tôi tớ của mình, họ chỉ là những mối quen biết phải bỏ lại trên cuộc
hành trình.[1]
Trừ phi ngài quen dần với trạng thái bản nhiên của cái thấy
và thiền định, ngày sẽ chạy vòng từ đời này sang đời khác, như trên vành của
một bánh xe quay nước, đi vào khi sanh và rời bỏ khi chết.
Trừ
phi ngài điều hành vương quốc ngài với chân lý của hoà bình; các luật lệ chặt
chẽ cũng giống như một cây có nhựa độc sẽ huỷ hoại chính nó. Đại vương, tôi xin
ngài hãy cai trị tuỳ thuận với Chánh pháp!
Đạo sư lại dạy cho nhà vua: Thưa bệ hạ, vào lúc chấm dứt của
thời kỳ này, con người khao khát các giáo huấn tuyệt diệu, nhưng sẽ không thực
hiện chúng. Không theo lời dạy của Pháp, nhiều người sẽ truyền bá rằng họ là
những hành giả. Vào thời ấy có nhiều kẻ khoe khoang mà ít người thành tựu. Khi
Phật Pháp ngừng dứt ở Trung Hoa, Tây Tạng và Mông Cổ, giống như một áo giáp
ghép bằng các mảnh kim loại bị vỡ ra, con người rất khó thuần phục. Vào thời
ấy, các lời dạy này phải giữ gìn cho Phật Pháp, nên ngài hãy niêm cất chúng như
là một kho tàng terma.
Thưa Bệ hạ, trong đời chót của ngài, ngài sẽ gặp các lời dạy
này và những người bảo vệ Phật Pháp. Rồi ngài sẽ ngưng dòng tái sanh và đi đến
cấp bậc của một vị Vidyadhara. Thế nên, chớ phổ biến chúng trong lúc này.
Hoan hỷ vô cùng, vua thiết lập một lễ dâng cúng Mạn đà la
bằng vàng và lễ lạy đi nhiễu quanh vô số lần.
Dấu ấn niêm kho tàng
Dấu ấn niêm che giấu
Dấu ấn niêm giao phó.
Không
có sự xung đột giữa tiểu thừa và đại thừa
Vua Trisong Deutsen dâng cúng một mạn đà la bằng vàng cho
đại Đạo sư Padmakara và nói: Kỳ diệu thay! Thưa Đại sư, con xin Ngài dạy cho
phương pháp thực hành chứng tỏ rằng: "Không có sự xung đột giữa Tiểu thừa
và Đại thừa".
Đạo sư trả lời: Emaho! Thưa đại vương, thật hiếm hoi tiếp
tục được sanh ra làm một ông vua trong một thân người hoàn hảo cùng với phước
đức. Thế nên, thật quan trọng khi trị vì được vương quốc của Pháp.
Ngài
có thể duy trì một luật lệ chặt chẽ đối với các hoạt động trần thế, nhưng nó
làm hại cho các chúng sanh. Thế nên, điều quan trọng là tu hành Bồ đề tâm.
Ngài có thể yêu quý cái thân huyễn hoá này với lòng say mê
lớn lao, nhưng giờ phút của cái chết thì không chắc chắn. Tóc trắng và các vết
nhăn của ngài là điều báo của cái chết. Thế nên, điều quan trọng là cảm thấy
nhàm chán và nỗ lực trong các phương thuốc, tức là sự thực hành Pháp.
Nguyên nhân để đi vào con đường giải thoát là giữ gìn sự
biết hổ thẹn và khiêm tốn, xa lánh hạnh xấu. Thế nên, điều quan trọng là tuân
thủ những lời thệ nguyện và giới luật mà không làm hư hại chúng.
Chúng sanh hữu tình là đối tượng của lòng đại bi. Thế nên,
hãy thoát khỏi thành kiến đối với các sự quen biết mới. Điều quan trọng là đưa
tất cả cận thần, thần dân và quyến thuộc vào chánh pháp và ủng hộ họ.
Người ta có thể không bao giờ gom góp cho đủ các vật như
thức ăn và của cải. Thế nên, điều quan trọng là dùng chúng cho chánh pháp mà
không để cho chúng bị hoang phí bằng cách trở thành lương thực cho kẻ thù và ma
quỷ.
Không có đức tin và sùng mộ, người ta không thể nhận tinh
tuý của những lời dạy miệng. Thế nên, điều quan trọng là tôn thờ và phụng sự
dòng các Đạo sư với niềm tin, sùng mộ và tin cậy.
Chính vì thầy chỉ cho ngài trí huệ và Phật tánh thường bằng
hiện diện nơi chính ngài. Thế nên, điều quan trọng là thỉnh cầu lời khai thị từ
một vị thầy của dòng trực chỉ và rồi đem nó vào thực hành.
Ngài không nhận được những sự ban phước khi ngài để thân,
khẩu, tâm trong tình trạng bình thường. Thế nên, điều quan trọng là tập trung
thần, khẩu, tâm vào hiện thân của hoá thần, thần chú và trạng thái bổn nhiên
vượt khỏi ý niệm.
Nếu ngài theo đuổi các việc làm bình thường thì thân, khẩu,
tâm ngài sẽ chạy rong trong các kinh nghiệm thế gian. Thế nên, điều quan trọng
là khéo léo bỏ đi các bầu bạn xấu và ẩn cư trong núi.
Cha mẹ, anh em, con cái và thê thiếp cũng giống như những
người du lịch đi qua, ngài sẽ không thể cùng ở. Thế nên, điều quan trọng là
buông bỏ ràng buộc và tự chế với phái nữ, nguồn gốc của sanh tử luân hồi.
Mọi thành tựu, danh dự và tiếng tăm của đời này là nguyên
nhân cho sự phóng dật và các chướng ngại. Thế nên, điều quan trọng là vất bỏ
mối bận tâm với đời này và khước từ toàn bộ tám sự quan tâm thuộc về thế gian.
Mọi kinh nghiệm hiện thời của ngài, cảm giác sướng khổ đa
dạng, đều giả tạo và không thực. Thế nên, điều quan trọng là nhận biết rằng tất
cả những gì xuất hiện và có mặt đều không có một hiện hữu độc lập, đều vô tự
tánh, giống như một sự hiện hình ảo huyễn hay một giấc mộng. Tâm thì giống như
một con ngựa rừng chạy rong bất kỳ chỗ nào nó thích. Thế nên, điều quan trọng
là luôn luôn chánh niệm tỉnh giác.
Bản tánh của tâm ngài, không thể chỉ điểm, là tánh Giác tự
có xưa nay vốn sẵn; điều quan trọng là nhìn vào chính ngài và nhận ra bản tánh
của ngài.
Khi
nắm bắt cái tâm, nó không còn lại. Thế nên, điều quan trọng là buông xả thân
tâm từ bên trong và để cho sự chú tâm ở trong trạng thái tự nhiên vốn sẵn của
nó.
Mọi sửa trị và tạo tác là sự lầm lạc thêm một lần thứ hai
nữa của chính tư tưởng. Thế nên, điều quan trọng là buông xả hoạt động phồn tạp
của tư tưởng trong khi để nó được tự do trong trạng thái tự nhiên bổn nguyên
của nó.
Mọi cố gắng và thử nghiệm để thành tựu đều bị cột ràng bởi
sợi thừng của tham cầu. Thế nên, điều quan trọng là để cho tâm được sáng tỏ
trong chính nó, lìa ngoài mọi cố gắng và tham cầu.
Ngài không đạt đến Phật tánh khi còn chứa chấp hy vọng và sợ
hãi. Thế nên, điều quan trọng là quyết chắc rằng bản tánh trống không và vô
sanh của tâm thì siêu vượt khỏi một Phật tánh để đạt được và một sanh tử để rơi
vào.
Emaho, hãy nghe, đức vua! Nếu ngài thực hành điều ấy, ngài
sẽ không có bất kỳ xung đột nào giữa Đại thừa hay Tiểu thừa, giữa Mật thừa hay
Giáo thừa, giữa thừa Nhân và thừa Quả. Thế nên, đại vương hay giữ điều ấy trong
tâm.
Vào lúc chót của thời kỳ này, đại vương, ngài sẽ cắt đứt
dòng tái sanh và đem sanh tử đến chỗ chấm dứt. Tánh Giác bổn nguyên của Phật
tánh sẽ mọc lên tròn vẹn trong ngài và ngài sẽ không ngừng thành tựu lợi ích
cho chúng sanh. Hãy cất giấu các lời dạy này như kho tàng quý giá!
Nghe xong lời chỉ dạy này về sự hợp nhất của phát triển và
thành tựu, nhà vua vô cùng hoan hỷ và lễ lạy, đi nhiễu nhiều lần và rải rắc bụi
vàng.
Đây
là lời dạy miệng về sự khuyên bảo quan trọng rằng: Không có xung đột gì giữa
các thừa chánh yếu.
Dấu ấn kho tàng
Dấu ấn che giấu
Dấu ấn giao phó.
Xâu chuỗi hạt bằng vàng của cam lồ
Kính Lễ Đại sư Padmasambhava! Người sanh từ Hoa Sen của sứ
Uddiyana là hoá thân của tất cả chư Phật ba đời, vị Vidyadhara vĩ đại của toàn
giác bất hoại. Ngài được mời đến Tây Tạng do đức vua và người trị vì Trisong
Deutsen. Khi ở đó, tôi Tsogyal, phụng sự Ngài như là người phối ngẫu tâm linh
và người phục vụ. Một lần, khi ở trong động Tidro xứ Shoto, tôi được chỉ cho và
nhận ra ý nghĩa Tâm Yếu Vô Thượng Thậm Thâm của Đại Toàn Thiện. Tôi xác quyết
được trạng thái bổn nhiên qua cái thấy như là kinh nghiệm trực tiếp, nó không
phải là giả định. Choáng váng vì ngạc nhiên, tôi công chúa của Kharchen, hỏi
rằng:
- Kỳ diệu thay! Đại sư, vì tất cả các điểm then chốt Tâm Yếu
của Mantra ẩn Mật đều bao gồm trong ba nguyên lý yếu tính, bản tánh và công
dụng, ba cái này có thể có sự sai lệch nào hay không?
Đạo sư nói: Tsogya!! Con hỏi điều đó thật là tuyệt hay. Thật
vậy, mọi điểm then chốt của Tâm Yếu Thậm Thâm đều chứa đựng trong yếu tính, bản
tánh và công dụng. Khi một người không hiểu, có ba đường lối đi lạc. Để giải
thích điều này, có bốn điểm: cách đi lạc, dấu hiệu của sự đi lạc, khuyết điểm
của điều này và hậu quả của sự đi lạc.
- Thứ nhất, cách đi lạc khỏi yếu tính. Tổng quát, "yếu
tính" đơn giản là trạng thái bổn nhiên tánh Giác của con, sự tỉnh giác
không giả tạo và không hư hoại. Từ vô thuỷ đến bây giờ, tánh Giác này thường
trụ như một cái biết trống không, nó không được tạo tác từ bất cứ thứ gì. Khi,
thay vì an trụ ngay như vậy, có người tu hành bằng cách tưởng tượng nó là trống
không, thế là người ấy không thoát khỏi thái độ, ý niệm, danh tướng của sự trụ
vào cái trống không. Bởi thế, người ấy lạc vào cái gọi là "Tánh không hư
vô luận".
- Dấu hiệu của sự đi lạc bắt đầu có những suy nghĩ như là
"Không có chư Phật ở trên! Không có chúng sanh bên dưới! Mọi sự đều không
vì chúng không hiện hữu!".
- Khuyết điểm của cách đi lạc này là tư tưởng, ý niệm
"tất cả đều không". Một thái độ như vậy làm cho con bỏ mọi hình thức
của hoạt động tâm linh như là sùng mộ và tri giác thanh tịnh, quy y và Bồ đề
tâm, tâm từ và bi, vv... Con lại dấn thân vào các theo đuổi thế tục. Đối với
cái xấu, thái độ này làm cho con đi vào một cách buông tuồng trong các hành
động không đức hạnh. Người nào hành động trong đường lối hư hỏng này chắc chắn
sẽ không có chỗ nào khác ngoài địa ngục Kim Cương.
- Làm hư hỏng chân lý của cái vốn là thiện đức, hậu quả của
một thực hành điên rồ như vậy sẽ tái sanh làm một kẻ chấp Không cực đoan. Làm
hư hỏng chân lý nhân quả, con sẽ chìm đắm trong đại dương của đau khổ.
Tsogya! Có nhiều người tuyên bố thấu hiểu tánh Không, nhưng
ít người thấu hiểu trạng thái bổn nhiên tối hậu.
Bây giờ, về "bản tánh" cũng có bốn điểm để đi lạc,
mà điểm thứ nhất, đi lạc khỏi bản tánh là như sau: Quang minh tự nhiên của tánh
Giác trống không, nó là hiện diện sáng tỏ như là các thân và trí tuệ không có
thân (hình tướng) với đầu và tay, không có màu sắc và không được tạo từ bất cứ
thuộc tính hữu hạn nào. Quang minh bổn nhiên của tánh Không này tự có như là
một phẩm chất thông tỏ, nó không chia lìa khỏi tánh Không. Không nhận ra tánh
Không thông tỏ này như là một nhất thể không thể phân chia thì gọi là "cái
Giác lạc vào tri giác Nhị nguyên". Dấu hiệu của người nào đi lạc vào lối
này là người ấy phát biểu các từ ngữ giáo pháp theo một cách cực đoan. Dầu được
dạy cho những lời diễn tả cái nhất thể này, tâm anh cũng không thể nắm được
chúng.
Khuyết điểm của sự đi lạc theo lối này, là thái độ ý niệm
danh tướng khi nhìn đối tượng như là cụ thể có thực, sẽ ngăn cản con không hiểu
được giáo lý Duy Tâm. Qua biên kiến nặng nề này, con xa lìa khỏi con đường và
các cấp bậc đi đến toàn giác. Người nào trụ vào cái được thấy như là thực tại
vững chắc thì không phải là một ứng viên cho giải thoát!
Hậu quả của sự lạc đường này là bên ngoài phải sinh lại
trong sắc giới vv..., vì đem sự chấp tướng vào trong sự hiển lộ Quang minh. Bên
trong, thái độ một chiều này, sự thất bại không nhận ra tánh Giác như là sự
thông tỏ trống không, là nguyên nhân không thể giải thoát.
Tsogya!! Nhiều người tuyên bố đã nhận ra Quang minh, nhưng
có ít người tu hành trong nhất thể của cái biết trống không!
Bây giờ về công dụng có bốn điểm đi lạc: Thứ nhất là đường
lối, cách thức đi lạc khỏi công dụng. Trong yếu tính, bất kể chúng xuất hiện
như thế nào, các tư tưởng khác nhau biểu lộ từ tánh Giác, như là sự sáng chiếu
tự nhiên của sự thông tỏ trống không, thì không bao giờ vượt ngoài tánh Giác
trống không. Không hiểu được điều này thì gọi là "đi lạc khỏi tánh Giác
trống không".
Dấu hiệu đi lạc vào lối này là các tư tưởng, ngôn ngữ và
hành vi đều dấn mình vào các cuộc theo đuổi đời thế tục.
Khuyết điểm của loại đi lạc này là một thái độ ý niệm như
vậy, trong đó tư tưởng xảy ra không hiện lên như là pháp thân, sẽ trói buộc con
trong mạng lưới của tư tưởng sanh khởi, như vậy làm tê liệt sự thực hành tâm
linh của con. Các thói quen tiêu cực thống trị của các khuynh hướng tiềm ẩn,
làm cho con theo đuổi các mục tiêu của cuộc đời này. Bị khoá trong những cái
còng của nghi ngờ nhị nguyên, con tự cột mình vào hy vọng và sợ hãi.
Hậu quả của đi lạc vào lối này là làm vững chắc thêm các
khuynh hướng thói quen, bởi vì không nhận ra sự đi lạc của các tư tưởng. Tiêu
phí đời mình trong phóng dật, bởi vì không nhớ các hậu quả của nhân quả và khi
con chết, sẽ đi lạc vào ba cõi.
Nhiều người tuyên bố tự do khỏi tư tưởng, nhưng ít người
thấu rõ điểm then chốt như thế nào chúng thoát khỏi sự sanh khởi.
Bà
Tsogyal lại hỏi: Vì vô nghĩa nếu không cắt đứt ba lối lầm lạc này, làm thế nào
chúng ta chuyển hoá nó?
Đạo sư trả lời: Tsogyal! Yếu tính trống không của tánh Giác
con thì không do cái gì tạo ra. Không nhân và duyên, nó hiện tiền xưa nay; chớ
có công thay đổi hay làm biến chất tánh Giác. Hãy để cho nó hiện hữu đúng như
nó là! Như thế con sẽ thoát khỏi đi lạc và tỉnh giác ở trong trạng thái của
thanh tịnh bổn nguyên.
Cũng như thế, bản tánh thông tỏ của con thì hiện tiền một
cách nguyên thuỷ và tự nhiên, không tách lìa tánh Không. Sự biểu lộ của nó, cái
công dụng vô ngại của bất cứ cái gì sanh khởi, thì không có sự hiện hữu cụ thể
là vô tự tánh. Hãy nhận biết rằng cả ba phương diện của tánh Giác là một nhất
thể vĩ đại không thể phân chia. Như thế con tỉnh ngộ như là tính không thể phân
chia của Ba Thân.
Một lần nữa Bà Tsogyal hỏi: Đâu là những con đường đi lạc
khỏi cái thấy, thiền định và hạnh?
Đạo sư trả lời: Nghe đây, Tsogyal! trước tiên về cái thấy,
có năm điểm: Sự lầm lạc của chính cái thấy, sự lầm lạc của chỗ ở, sự lầm lạc về
bè bạn, sự lầm lạc của phiền não và sự lầm lạc của tính một mặt.
Thứ nhất, đối với sự lầm lạc của chính cái thấy, cái thấy
thông thường của Pháp, là xác định rằng: Tánh Không thì vượt khỏi các giới hạn,
nhưng trong bối cảnh này thiền giả của Tâm Yếu chấp nhận rằng tánh Không là một
hiện thực trực tiếp. Khi con hoàn thành sự chứng ngộ thực sự và tối hậu, hai
cái này: tánh không và kinh nghiệm về cái hiện thực là không thể phân chia.
Nhưng nếu con không chứng ngộ, bấy giờ cái thấy thông thường, nó là một cái
thấy giả định, không giải quyết được nghĩa hiện thực; đây là sự lầm lạc vào cái
thấy thực tại hiện thực mà xem một cái thấy thuộc về danh cú giả định như là
tối hậu, con sẽ có những nhận xét như "Mọi sự là vượt khỏi điểm qui chiếu,
vô tạo tác, và thoát ngoài mọi đối cực!" Cư xử theo cách đó làm lẫn lộn
thiên hạnh và tà hạnh, con có những phát biểu như: "Không có tốt và xấu!
Không có phước đức gì từ những hành động đức hạnh! Không có tai hại gì từ tà
hạnh! Mọi thứ đều vốn giải thoát và bình đẳng!". Như thế, con vẫn là một
người bình thường. Đây gọi là "cái thấy ma quái truyền bá hắc đạo",
và nó là gốc rễ của mọi đường lối sai lầm của cái thấy.
Tsogyal! Nếu con muốn không lạc vào lối này, cốt yếu là hành
động tương ứng với cái thấy bất nhị, sự thông tỏ tự nhiên trong thực tại, không
lìa khỏi hạnh đặt căn bản trên nhân quả sâu xa.
Thứ hai, về sự lầm lạc của chỗ ở, thông thường có dạy rằng:
Để hoàn thành sự chứng ngộ tối hậu về cái thấy. Người nào có một chứng ngộ tạm
thời về cái thấy phải đến một nơi hẻo lánh, rộng thoáng, như là một chỗ ẩn cư
trên núi hay nghĩa địa. Con có thể sở hữu tạm thời cái thấy, nhưng để duy trì
nó, con phải ở trong thất trên núi. Một chỗ ở xấu thật ra có thể làm cho cái thấy
của con bị lầm lạc.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh lối lầm lạc này, hãy hộ trì cái
thấy tạm thời của con ở những nơi ẩn cư núi non!
Thứ ba, đối với sự lầm lạc về bè bạn, thông thường có dạy
rằng: Người nào tạm thời có cái thấy phải ở với những bạn đồng tu hoà hợp với
Pháp và không gây ra phiền não. Giữ sự liên lạc với các bạn xấu, con không thể
tránh được bị ảnh hưởng bởi đường lối xấu của họ. Đó là gốc rễ của lầm lạc, vì
nó dẫn con vào sự theo đuổi các mục đích của đời này, ngăn cản con hộ trì cái
thấy và làm tăng phiền não.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh lối lầm lạc này, hãy cắt đứt sự
ràng buộc với bạn bè không cần thiết và ở yên nơi cô tịch!
Thứ tư, về sự lầm lạc của phiền não: Người nào tạm thời có
cái thấy thì chưa thể hoàn toàn vượt qua các phiền não. Người ấy có thể dấn
thân vào các phiền não, vì một số hoàn cảnh bên ngoài. Trong sự dấn thân ấy,
dầu chỉ trong một niệm, nghiệp được sản sanh. Nếu sự dấn thân kéo dài một thời
gian, con mắc phải các nghiệp xấu theo chiều hướng năm độc sinh ra nghiệp xấu
trong mỗi cái của sáu thức. Đời này hay mai sau con sẽ gặt quả. Bởi thế, con
phải tức thời chánh niệm không màng đến phiền não nào mình cảm thấy và buông
lỏng sự chú tâm.
Tu hành Từ và Bi đối với tất cả chúng sanh mà từ phiền não
của họ, họ sẽ tạo ra nghiệp. Cầu nguyện vị thầy của con, khấn rằng: "Xin
ban phước cho con để dùng được phiền não như con đường". Tu hành hàng ngày
thần chú tịnh hoá các hạt giống phiền não. Chấm dứt với sự thư giãn trong trạng
thái của cái thấy rồi hồi hướng và phát nguyện.
Nếu con thực hành theo lối này, con sẽ đạt được cả hai những
hiệu quả tạm thời và tối hậu. Nhưng nếu không, con sẽ đắm trong đầm lầy phiền
não và hỏng dịp hoàn thiện cái thấy. Đây là nguyên nhân gay gắt nhất của sự lầm
lạc.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh lầm lạc vào lối này, hãy áp dụng
phương thuốc cho bất kỳ phiền não nào con cảm thấy và như thế dùng nó như con
đường của con!
Thứ năm, sự lầm lạc của tính một chiều, ngay cả người sở hữu
cái thấy một cách tạm thời, cũng có thể lạc vào quan điểm triết học của trường
phái tư tưởng riêng mình. Trích dẫn từ kinh điển, với tính cách một chiều và
biên kiến, thành kiến, họ phân biệt giữa mình và người, cao và thấp. Làm như
thế là sự lầm lạc căn bản muốn đo lường cái thấy không giới hạn, vĩ đại của chư
Phật bằng ý thức, ý niệm, danh tướng của một thường nhân và tạo ra những giả
định về nó.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh đi lạc theo lối này, hãy nhận ra
cái thấy vĩ đại không giới hạn của giải thoát!
- Về phương diện thứ hai, các lầm lạc của thiền định cũng có
năm điểm; Sự lầm lạc của chính thiền định, sự lầm lạc của chỗ ở và bạn bè,
sự
lầm lạc của thiền định sai lầm và sự lầm lạc của các phiền não.
Thứ nhất, sự lầm lạc của chính thiền định: Đó là khi người
đệ tử không hiểu được thực tại hiện tiền mà vị Thầy chỉ thẳng cho. Thế rồi
người ấy đi lạc do lầm lộn yếu tính, bản tánh và công dụng, do bởi không nhìn
thấy chúng không cách lìa với tánh Không và tánh Giác.
Giải thích thêm điều này: Sau khi thực hành theo loại giáo
lý truyền miệng của Thầy con, nếu con bám vào cảm giác lạc trong thân và tâm,
con sẽ lạc vào sự sinh lại như là một vị thiên hay người trong các cõi Dục. Nếu
con vướng mắc vào trạng thái của tâm nó đơn thuần và vô niệm, con lạc thành một
vị thiên trong các cõi Sắc. Nếu con bị hấp dẫn bởi sự trong sáng và vô niệm,
con lạc thành một vị thiên trong các cõi Tịnh. Nếu con vướng mắc vào lạc phúc
và vô niệm, con lạc thành một vị thiên trong Dục giới. Nếu con bị hấp dẫn bởi
trống không và vô niệm, con lạc thành một vị thiên của Vô sắc giới. Trong những
lối ấy, con lạc vào ba cõi.
Nếu con người dòng cảm thức các đối tượng, con lạc vào cõi
tri giác của Không vô biên xứ. Nếu con ngừng các cảm giác, như trường hợp ngủ
say, con lạc vào cõi tri giác của Vô sở hữu xứ. Nếu con ngừng cái được thấy
trong khi cái biết còn sinh động, con lạc vào cõi tri giác của Thức vô biên xứ.
Nếu con còn một cảm giác mong manh về lạc trong khi tiếp tục không có gì được
thấy, con lạc vào cõi tri giác của Không hiện diện cũng không vắng mặt. Các cái
này gọi là "rơi vào Chỉ (Shamatha) một chiều", khi con chết và chuyển
sanh, con tiếp tục lạc vào sáu loài của ba cõi.
Tsogyal! Không cần phải rớt lại vào sanh tử. Thế nên, hãy
cắt đứt các lầm lạc của sự thực hành thiền định ngu muội!
Hơn nữa, nếu con tin vào cái thấy của người bình thường thấy
có tâm và cảnh, con lạc vào sự bình thường Duy vật. Nếu con nhìn chúng theo
cách biên kiến một chiều như là có hoặc không có, con lạc vào thường kiến hoặc
đoạn kết cực đoan. Nếu con tin rằng đối tượng sự vật hiện hữu lìa ngoài tâm
thức, con lạc vào Thanh Văn hoặc Bích Chi. Nếu con nói rằng các tri giác đều là
tâm thức, con lạc thành một người theo phái Duy tâm. Nếu con tin rằng thế giới
và chúng sanh là các hoá thần, con lạc vào Mật thừa. Có ích lợi gì của sự thực
hành thiền định mà không biết làm sao cắt đứt các lầm lạc này!
- Vâng! Xin hãy cho con phương pháp cắt đứt sự đi lạc. Bà
hỏi.
Đạo sư trả lời: Tsogyal! Nếu con muốn tránh đi lạc vào các
lối này, trước tiên hãy có được một sự học rộng; tiếp theo, tập trung vào giáo
lý trực chỉ; và cuối cùng, khi áp dụng nó trong thực hành. Phải hiểu các đường
lối đi lạc đề cập ở trên không gì khác hơn là sự bám chấp và sự tham dính vào
các trạng thái thiền định. Thiền định giống như ví dụ một con thỏ ngủ trong tổ
một con diều hâu, hay như sự tập trung của một người bắn cung, thì không phải là
nguyên nhân cho giải thoát. Chẳng kể loại kinh nghiệm tạm thời nào mà con có,
hãy đơn giản buông xả và ở yên trong bất cứ thứ gì được kinh nghiệm. Không cố
gắng phát triển hay làm biến chất, không hy vọng và sợ hãi, không lấy và bỏ.
Khi tự do khỏi sự trụ vào bất cứ điều gì được kinh nghiệm, thì không có nguyên
nhân để đi lạc.
- Thứ hai, đối với sự chỉ dạy về sự lầm lạc của chỗ ở và của
bạn bè: Thiền giả phải tu hành trong một nơi có những tính cách chân chánh. Nếu
con ở trong một ngôi chùa phóng dật hay một nơi làm tăng thêm mạng lưới phiền
não, sự thương và ghét sẽ làm cho con bị phủ ngập bởi các phiền não này, do bất
tịnh về đạo đức và những cúng dường con nhận được. Giữ liên lạc với các bạn xấu
sẽ ngăn chặn sự tiến bộ trong thiền định và giống như tự mua cho con thuốc độc.
Tsogyal! Nếu con muốn thực hành pháp trong một con đường
đích thực, tối quan trọng là cắt những mối ràng buộc vào các nơi chốn và bạn bè
xấu vv... Thế nên, hãy bỏ chúng đi!
- Thứ ba, về sự lầm lạc của thiền định sai lầm: Khi cố gắng
duy trì trạng thái thiền định, con có thể kinh nghiệm hôn trầm, xao động và tán
tâm(1). Về hôn trầm, có sáu loại: Hôn trầm do chỗ ở, do bạn bè, do thời gian,
do thức ăn, do tư thế và do thiền định.
* Thứ nhất, hôn trầm do chỗ ở xảy ra: Vì ở trong một khu rừng
hay một hẻm núi nằm thấp; trong một vùng hay một làng kém đạo đức. Về mặt trí
óc con cảm thấy mờ tối, các bindu không rõ ràng, sự tỉnh giác như bị mây che,
con cảm thấy rất buồn ngủ, thân thể nặng nề. Trong những trường hợp này, làm
các lễ nghi tẩy tịnh và sám hối. Đến chỗ khoáng đạt, thiền định trong một nơi
có trời trong, không mây, mở cửa sổ cho không khí trong lành. Hãy tưởng tượng
con đang ở trên đỉnh một ngọn núi tuyết và xúc chạm với gió mát. các phương
pháp này sẽ trừ sạch hôn trầm.
* Thứ hai, hôn trầm do mối liên lạc bạn bè xảy ra: Do ở với
người hạnh kiểm xấu hay với một phối ngẫu tính cách không sạch, vì người ấy có
thể có những quan hệ bừa bãi. Chính con cũng bị ô nhiễm luôn. Trong trường hợp
này, nỗ lực trong các nghi lễ để thành tựu, sám hối và tịnh hoá. Hãy cảnh giác
với người phá hư các thệ nguyện hay hạnh kiểm dơ bẩn. Tìm kiếm một phối ngẫu có
phẩm hạnh, người ấy đã nhận sự truyền pháp và không cho phép sự quan hệ bừa
bãi. Điều ấy sẽ làm sạch hôn trầm.
* Thứ ba, hôn trầm do thời gian: Là cảm thấy tối tăm, buồn
ngủ vào mùa xuân hay mùa hè. Được xoá sạch bằng cách đi đến các núi tuyết và
các địa điểm tương tự.
* Thứ tư, hôn trầm do thức ăn và đồ mặc: Là cảm thấy mờ đục
và bị che ám từ thức ăn của người khác hay đồ mặc dơ bẩn. Khi thực hành con
phải tránh thức ăn của người khác và đồ mặc dơ bẩn. Điều đó sẽ làm sạch hôn
trầm.
* Thứ năm, hôn trầm do tư thế: Là khi một người sơ học trở
nên buồn ngủ, do bởi nằm dài người và những tư thế tương tự. Trong lúc tu tập
thiền định, hãy giữ ba tư thế hay tư thế kim cương (ngồi tréo chân), làm mạnh
mẽ tâm thái, làm hưng phấn các giác quan của con; hãy thiền định với sự trong
sáng mãnh liệt. Điều ấy sẽ làm sạch hôn trầm.
Thứ sáu, hôn trầm do thiền định: Đến từ thiền định với một
trạng thái chán nản của tâm, như vậy cảm thấy hoàn toàn tối tăm và buồn ngủ.
Hướng đôi mắt về bầu trời trong một cách thăng bằng; hãy tỉnh giác một cách sắc
bén và làm bén nhạy trí tuệ của con. Điều ấy làm sạch hôn trầm.
[1]
Các bản văn về các cấp độ tiệm tiến của con đường dạy rằng:
Hôn trầm và xáo động là do lỗi lầm không làm sống động được tỉnh giác.
Tsogyal! Các chướng ngại của thiền định không thể trừ sạch,
trừ phi con siêng năng cần cù!
Tiếp theo, về xáo động có hai loại: Xáo động do chỗ ở và xáo
động do hoàn cảnh.
* Xáo động do chỗ ở xảy ra khi thiền định ở một nơi sáng sủa
và cao ráo. Sự tỉnh giác của con trở nên trong sáng, sự chú tâm không ổn định
được các tư tưởng lay động và phân tán. Nếu con để cho mình đi vào bất kỳ thứ
gì bắt lấy sự chú tâm của con, con sẽ làm mồi cho phiền não. Để đối phó với
điều này, hãy nhìn thẳng vào điểm gặp nhau giữa mặt đất và bầu trời. Nếu chuyện
đó không làm cho con yên lặng, thì hãy áp dụng cái nhìn (xuống) của một Thanh
văn và đôi khi chú tâm vào một vật. Ban đêm, đi ngủ trong khi tưởng tượng rằng
tâm con đi vào một bindu màu đen, ở trong hai đầu mối kinh mạch hình quả trứng
nằm trong hai lòng bàn chân con. Đây là một lời dạy, nhưng tốt hơn là tập trung
tâm con vào chữ A trong chỗ bí mật của con. Khi một tư tưởng thình lình xảy ra,
hãy nhận ra nó, dùng chữ Phat và giữ hơi lại, sau đó thư giãn hoàn toàn và
buông xả. Kế đó, theo dõi những tư tưởng, rồi con trụ trong trạng thái không
tìm kiếm gì. Điều này sẽ làm sạch xáo động.
* Xáo động do hoàn cảnh xảy ra khi do một biến cố bên ngoài:
Con đi theo một tư tưởng, tâm con trở nên lay động và phân tán trong một phiền
não. Khi điều ấy xảy ra hãy giữ thái độ "Chẳng cần phải làm gì cả!"
tu hành Từ và Bi, xả ly, phương tiện, trí huệ và sùng mộ. Tiếp theo đó, kiên
trì thực hành như trong thời gian của cái thấy. Điều này làm sạch xáo động.
- Điểm thứ ba, về lỗi của tán tâm có hai phần: Tán tâm do
thiếu hiểu biết và tán tâm do hoàn cảnh.
* Tán tâm do thiếu hiểu biết là khi không có tiến bộ bất kể
con thiền định nhiều bao nhiêu. Đó là vì không biết làm sao phân chia sự thực
hành thành các thời công phu. Con lại ngược với lời dạy và Thầy của con; hay là
không biết làm sao phân biệt giữa lý thuyết và kinh nghiệm, con thành một thiền
giả ngu si.
Đối phó với điều này, hãy cầu nguyện Thầy con, phát triển sự
xác tín vào giáo huấn bằng lời, chia sự thực hành của con thành các thời và lập
lại chúng nhiều lần. Không bận rộn công việc, hãy thiền định rộng rãi và tự do.
Khi cảm thấy sáng tỏ, cắt đứt tán tâm và tiếp tục thiền định. Điều đó sẽ cắt
đứt tán tâm và tăng trưởng kinh nghiệm.
* Tán tâm do hoàn cảnh xảy ra, khi do một vài biến cố bên
ngoài, con rơi vào năm độc hay sáu loại tri giác của thức, trở nên phóng tâm và
mất chánh niệm. Để đối phó với điều này, áp dụng tức thời phương thuốc cắt ra
từng mảnh sự trụ tâm vào cái được thấy và nhìn nó như một ảo ảnh huyễn hoá.
Tsogyal! Nếu con muốn cắt đứt các sự lầm lạc này, hãy đánh
vào mũi-heo của các phiền não!
- Thứ tư, về sự lầm lạc của các phiền não: Người cố gắng duy
trì sự tu hành thiền định sẽ gặp nhiều kẻ thù và trộm cướp là các phiền não của
mình. Chúng có thể phân thành năm phạm trù: sân, kiêu mạn, tham, ghen ghét và
si mê. Từ các gốc rễ này khởi ra 84.000 phiền não, chúng sẽ không cho con ở yên
trong thiền định. Mỗi thứ của năm độc này đưa con vào năm phiền não, chúng kéo
con thêm vào sanh tử. Thế nên, chớ để cho bị phóng tâm bởi chúng, bằng thái độ
cẩn trọng của một bà mẹ đã lạc đứa con độc nhất của mình. Hãy bỏ đi các xụng
động này, như khám phá ra một con rắn độc trên đùi mình. Hãy nhận ra chúng, báo
động và tỉnh thức, thực hành theo cùng một cách như khi tu hành cái thấy. Trừ
phi con thực hành theo cách này, nếu không nghiệp xấu sẽ được tạo ra trong mỗi
khoảnh khắc.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh đi lạc theo lối này, hãy nỗ lực
chống lại một cách khéo léo đối với năm độc bằng cách chấp nhận và khước từ
đúng đắn, mà không lìa sự canh chừng của thức giác!
Trong bất cứ trường hợp nào, khi con chưa đạt đến ít nhiều
vững chắc an định trong cái thấy và thiền định, cần thiết phải lánh vào nơi cô
tịch, như một con nai bị thương; lướt nhanh qua các phiền não, như gặp một con
rắn độc.
Bà Tsogyal lại hỏi: Một hành giả Mật chú có phải dùng mọi
phiền não như con đường không?
Đại sư trả lời: Dĩ nhiên chúng phải được đưa vào con đường!
Nhưng chỉ có một con công mới có thể ăn thuốc độc. Người có thể dùng phiền não
cho con đường mà không bỏ chúng thì hiếm hoi như hoa ưu đàm. Trong khi đối với
người lợi căn phiền não hiện ra như một người giúp đỡ; thì đối với người kém
hơn nó thành ra thuốc độc. Đối với người căn cơ thấp này, tốt hơn là hãy bỏ đi
các phiền não!
Bà hỏi: Sau khi từ bỏ được bao nhiêu thì một người trở thành
đệ tử?
- Khi con không bị dính mắc với phiền não và lạc thú giác
quan, chúng được kinh nghiệm như huyễn hoá. Thế rồi con không cần đè nén phiền
não, dầu chúng có khởi ra, vì chúng không còn làm hại được. Khi chúng không
khởi sanh, con không có ý muốn sản xuất ra chúng, vì con đã thoát khỏi mong
muốn. Khi điều này xảy ra, phiền não được đem vào con đường. Cố gắng dùng phiền
như là con đường, trong khi không lìa bỏ sự chấp tướng thì cũng giống như một
con ruồi dính trong vũng mật.
Tsogyal!
Hãy cắt đứt sự lầm lạc theo các lối này!
Chủ đề thứ ba: "Sự lầm lạc khỏi hạnh" có hai phần:
Sự lầm lạc của hạnh không đúng thời và sự lầm lạc tổng quát của hạnh.
- Cái thứ nhất có bảy điểm. Lúc khởi đầu, hạnh giống như con
ong phải đi trước học (Văn), suy nghĩ (Tư) và thiền định (Tu); vì đây là hạnh
của một người sơ học. Thế nên, sai lầm khi theo nó vào thời gian tu hành thiền
định.
Hạnh giống như con nai đặc biệt cho thời gian thực hành con
đường. Sai lầm nếu theo nó vào thời gian tu hành thiền định, vì định của con sẽ
mất sự tự do của nó.
Hạnh tịnh khẩu là đặc biệt cho lúc đã đạt đến điểm then chốt
của kinh nghiệm. Sai lầm nếu theo nó khi người ta phải đối xử như một con ong,
bởi vì không phân biệt giữa lời và nghĩa.
Hạnh của một con chim sẻ tìm kiếm tổ của nó, thì đặc biệt
cho khi con đã đạt được kinh nghiệm cá nhấn. Sai lầm nếu theo nó khi con đã đạt
sự điêu luyện trong định, bởi vì nó trở thành một chướng ngại.
Hạnh giống như của một người điên là đặc biệt cho lúc con đã
làm vững chắc kinh nghiệm. Sai lầm nếu theo nó khi con chỉ có kinh nghiệm một
phần, vì chưa khám phá nghĩa viên mãn.
Hạnh giống như sư tử là đặc biệt cho thời gian hoàn thiện
cái thấy. Sai lầm nếu theo nó khi cố gắng có được kinh nghiệm, bởi vì chưa tìm
được sự tin chắc trong tánh Như, con có thể bị tràn ngập bởi hiện tượng khác.
Hạnh giống như chó và heo: đặc biệt cho thời gian thông thạo
nhuần nhuyễn. Sai lầm nếu theo nó vào thời gian sai lầm, bởi vì con sẽ gặt hái
sự trừng phạt của Dakini.
Khi con theo một con đường không hư hỏng của hạnh, kinh
nghiệm cá nhân của con sẽ hiện lên như là bản tánh bổn nhiên của pháp tánh. Đã
đạt được sự chế ngự trên các nguyên tố, con có thể chuyển hoá tri giác không
niềm tin của người khác, làm sống lại người đã chết và làm được các kỳ công
phép lạ.
Nếu con làm hỏng các đường lối của hạnh nói ở trên, đó gọi
là lầm lạc khỏi hạnh và con sẽ không có kết quả.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh đi lạc vào lối đó, hãy đi theo
con đường chánh hạnh như được nói trong kinh điển.
Thứ hai, về sự lầm lạc tổng quát của hạnh, con có thể tạm
thời tạo ra một cách cư xử, nhưng nó không tương ứng với pháp. Nếu nó không trở
thành con đường giác ngộ, nó sẽ được gọi là đạo đức giả và tạo thành sự lầm lạc
của hạnh.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh đi lạc liên quan đến hạnh trong
tổng quát. Hãy chắc chắn rằng bất cứ thái độ cư xử nào con theo đều trở thành
con đường giác ngộ!
- Đối với chủ đề thứ năm, sự lầm lạc của quả, có hai điểm:
tạm thời và rốt ráo.
Sự lầm lạc tạm thời là sau khi đã thực hành các lời dạy
miệng, con xem một kết quả bình thường như là cái tối thượng, con cảm thấy kiêu
hãnh và ngạo mạn. Đây gọi là một sự lầm lạc, bởi vì nó che lấp cái quả rốt ráo.
Sự lầm lạc rốt ráo là khi con không giải tan được hy vọng và
sợ hãi, cho dù con đã đạt đến quả. Thế rồi hậu quả lạc thành một nguyên nhân.
Tsogyal! Nếu con muốn tránh đi lạc theo lối này, hãy nhận ra hy vọng và sợ hãi
là không có nền tảng.
Bà Tsogyal lại hỏi: Người ta có cần phát khởi Bồ đề tâm sau
khi thành tựu điểm cốt yếu này là thấy vào thực tại?
Đạo sư trả lời: Đại thừa và Mật thừa thực ra có khác biệt do
phẩm chất đặc biệt của sự phát Bồ đề tâm. Tuy nhiên, trừ phi con luôn nhớ đến
cái chết, vô thường, nhân quả và các hiểm nguy của sanh tử trong bốn phần của
một ngày, thì các biến cố của cuộc đời này sẽ nhanh chóng vút qua.
Con có thể tự cho là một người theo Đại thừa, nhưng trừ phi
con liên tục tu hành Từ và Bi cho tất cả chúng sanh, nếu không con đã lạc thành
một Thanh văn hay Duyên giác.
Con có thể chứng ngộ cao, nhưng trừ phi con chấp nhận hay
khước từ đúng đắn trong mỗi khoảnh khắc ngay một điều nhỏ nhất của nhân quả,
con sẽ còn gặp một số hoàn cảnh đau khổ.
Tsogyal! Nếu con muốn thực hành pháp trong một con đường
chính thống, con hãy tiếp xúc với sự chứng ngộ và điều Ta đề cập ở đây!
Bà
Tsogyal lại hỏi: Đâu là chướng ngại lớn nhất khi thực hành con đường?
Đạo sư trả lời: Khi lần đầu bước vào con đường, bất kỳ hoàn
cảnh nào dẫn tâm con đi lạc, đều là một chướng ngại. Đặc biệt đàn bà là ma quỷ
lớn nhất cho đàn ông và đàn ông là ma quỷ lớn nhất đối với đàn bà.
Tổng
quát, thức ăn và quần áo là những ma quỷ chính.
Bà Tsogyal lại hỏi: Vì chướng ngại lớn nhất khi thực hành
pháp là sự bám níu ích kỷ vào thức ăn, áo quần và thân thể, xin nói cho con làm
thế nào bỏ được ba cái này.
Guru Rinpoche trả lời: Tsogyal! Sớm hay muộn thân này cũng
chết. Độ dài đời người đã được xác định, nhưng chúng ta không chắc chúng ta
giết già hay trẻ. Ai cũng phải chết và ta không thấy ai thoát khỏi chết bằng
cách gắn bó vào thân thể đẹp đẽ của mình. Hãy vất bỏ đi mọi yêu thích chấp ngã
về thân con và giữ sự ẩn cư trong núi!
Đối với áo quần, ngay chỉ một áo choàng lông cừu cũng đủ và
người ta có thể sống ngay trên đá hoặc nước, nhưng điều này hình như không dành
cho các hành giả Tây Tạng1
Bà Tsogyal lại hỏi: Con có cần ghi lại tất cả các điều Thầy
dạy?
Guru
Rinpoche trả lời: Nếu con ghi lại, con sẽ làm lợi cho các thế hệ mai sau.
Bà hỏi: Vâng! Nó có nên được phổ biến hay cất giấu? Làm thế
nào nó sẽ đem lại lợi lạc? Ai sẽ dùng nó?
Guru Rinpoche trả lời: Thời gian để phổ biến nó thì chưa
tới, nên nó phải được cất giấu. Khi Ta đặt chiếc hộp chứa kinh điển của Tâm yếu
trên đỉnh đầu con gái nhà vua, công chúa Pema Sal, Ta nguyện cho nó được là sự
chỉ dạy riêng của cô ta. Vài đời sau khi cô chết, cô sẽ gặp lại lời dạy nầy.
Con phải cất giấu nó như là một kho tàng terma cho mục đích ấy.
Vimalamitra sẽ xiển dương các giáo lý của Tâm yếu. Thời gian
đã đến cho các đệ tử của Ngài. Lời chỉ dạy này, nó là Tâm yếu của Ta, sẽ hiển
lộ khi các bản dịch sơ thời bị hư hỏng và gần như biến mất. Nó sẽ truyền rộng
và nở rộ ghê gớm, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Nói chung, mọi giáo lý của thời
đen tối sẽ nở rộ rộng rãi nhưng kéo dài ngắn ngủi.
Vào lúc chót của thời đại này, khi tuổi trung bình của con
người còn năm mươi tuổi, công chúa sẽ lấy một sự tái sanh làm người và được
chấp nhận bởi Nyang (Ral Nyima ệzer), một hoá thân thuộc khẩu (Speech
Incarnation) của vua (Trisong Deutsen). Trong phần cuối cuộc đời của Guru
Chowang, sự tái sinh của nhà vua, bà sẽ được tiếp xúc lại với Pháp.
Trong đời tiếp theo bà sẽ gặp kho tàng Terma này chứa đựng
các lời dạy bằng miệng về Tâm yếu. Vì lúc đó sẽ là thời gian cho thực hành, nên
sẽ không có hoạt động nào lợi lạc cho chúng sanh. Con người này(1) sẽ sống 59
năm. Người ấy sẽ có nhiều mối liên hệ nghiệp tốt và xấu. Một số trong các đệ tử
sẽ sanh về Cực lạc, trong khi một số sẽ tái sanh trong các cõi thấp. Điều này
chứng tỏ hậu quả của các Samaya bị ô nhiễm và có thể người ấy chết
vào tuổi 50. Người ấy phải cảnh giác chống lại sự ô nhiễm
của Samaya, nỗ lực giám sám hối. Làm như thế người ấy sẽ có thể sống tròn đủ số
năm.[1]
Vào thời điểm đó có thể rằng một người đàn bà được ban phước
bởi năm loài Dakini sẽ xuất hiện. Nếu người nữ ấy được như thế và người ấy lấy
nàng như người phối ngẫu, người ấy phải cầu nguyện sống lâu; rồi người ấy có
thể sống hơn 50 năm. Người ấy sẽ có một đệ tử, một cô gái tiền định với dấu
hiệu là một con chuột chũi. Nếu người ấy ban cho cô toàn bộ giáo huấn, cô sẽ có
thể hành động cho lợi lạc của chúng sanh ở một mức độ rộng rãi. Nếu nàng không
xuất hiện trong đời ấy, thì nàng sẽ trở thành đệ tử của người ấy trong đời sau,
và đạt đến giác ngộ Vô dư ở phần cao của xứ Kharag(1).
(1)
Giác ngộ vô dư thường có nghĩa là đạt đến thân cầu vồng. Đôi khi, nó có thể
nghĩa là sự chứng ngộ tạng thái Giác, thoát khỏi dư tàn của năm ấm thuộc điều
kiện (EPK).
Nếu người ấy không đem những giáo huấn này đến phần thấp của
xứ Bumtang, mà cất giấu chúng ở chỗ nguyên thuỷ hay trong một tảng đá ở một nơi
không thể bị thay đổi hình dạng bởi chư Thiên hay quỷ thần, người ấy sẽ khám
phá lại chúng trong đời sau.
Sau sự tái sanh này, người ấy sẽ lang thang một lúc qua các
cõi báo thân, và sau đó sanh ở Tarpaling xứ Bumtang. Làm lợi lạc cho chúng sanh
từ tuổi 15, người ấy sẽ khám phá nhiều Terma và làm nhiều loại phép lạ. Người
ấy sẽ sống đến 70 tuổi. Lấy năm Dakini có thân người nữ như là các phối ngẫu,
hoạt động của người ấy cho chúng sanh sẽ sáng bừng. Người ấy có một con trai
tên Dawa Drakpa, một hoá thân của Hayagriva đứa con này cũng làm lợi lạc chúng
sanh. Người ấy sẽ duy trì Phật pháp trong 90 năm. Vì đây là lời dạy riêng của
người ấy, hãy cất giấu nó như là kho tàng Terma!
Nghe xong, Bà Tsogyal lễ lạy, nhiễu quanh vô số lần và nỗ
lực viết lại.
Samaya. ấn. ấn. ấn.
Kỳ diệu thay, một người như tôi, người đàn bà ngu dốt
Tsogyal!
Có thể gặp được Hoá thân qua các ước nguyện trong sạch!
Qua Samaya thanh tịnh của tôi, tôi đã nhận được tinh tuý của
các giáo huấn.
Bằng cách hiến dâng sự phụng sự, Ngài nhìn tôi với tâm từ
bi.
Thấy tôi là một người tiếp thu xứng đáng,
Ngài giao phó cho tôi tinh tuý của Mantra,
Và ban cho Tâm yếu tối thượng, tinh ròng.
Không phô bày nó một cách phi thời, tôi giấu nó như một kho
tàng Terma.
Mong rằng Tràng Hạt Vàng của Cam lồ này trong hình thức hỏi
đáp.
Gặp gỡ người có những dấu hiệu hoàn toàn ấy!
Samaya.
Dấu ấn của thậm thâm.
Dấu ấn của kho tàng.
Dấu ấn không thể đọc.
Dấu ấn của nghiêm nhặt.
Trong thời đại đen tối, vòng bí mật của giáo huấn cốt lõi
này,
Được giao phó cho một người tiền định hành thuỷ sanh năm con
Thỏ,
Một đứa con ruột của Uddiyana, có một định mệnh được che
giấu,
Một cư sĩ với thông minh thực sự.
Năng lực đầy đủ của người không nở hoa trong đời đó, mà sẽ
theo một lối sống ẩn mật(1).
Người không thắng cương đức hạnh, thoát khỏi giả hình,
Người sở hữu các thần lực, nhưng sức mạnh của người không
được phát lộ.
Và người được đánh dấu bằng một con chuột trên thân và có
cặp mắt lồi.
Các đệ tử của người, con của năm loài Dakini, Sinh trong các
năm Cọp, Thỏ, Chó, Rồng và Bò.
Sẽ nắm giữ dòng phái và tiến đến các cõi trời.
Bất cứ ai nắm giữ dòng phái người, sẽ đạt đến Phật tánh
trong một đời;
Họ sẽ là thiền giả trong kiếp cuối cùng của họ.
ITHI. Mong rằng nó được tốt đẹp!
[1]
Những
bài ca cho 25 đệ tử
Nhà vua và 25 đệ tửm bấy giờ hỏi vị Đại sư quý báu của
Uddhiyana: Xin ban cho chúng tôi một lời dạy sâu xa chạm đến điểm chính yếu, nó
gồm trọn tất cả và tuy nhiên đơn giản cho thực hành.
Padmasambhava hát lên để trả lời:
Kỳ diệu thay!
Hỡi đức Vua, hoàng tử và các đệ tử còn lại,
Thật nghĩa thì không ở trong giới hạn của bất kỳ ai.
Khi một người nhận không xứng đáng được nghe.
Nó trở thành nguyên nhân cho vu khống, hiểu lầm và làm hư
hoại các Samaya.
Ta đã cho các con những tiên tri quan trọng về tương lai.
Nhưng các lãnh tụ xấu xa của Tây Tạng,
Không có niềm tin, bất kể họ nghe nhiều thế nào,
Truyền rộng sự giả dối, họ nói chuyện vu vơ.
Tuy nhiên ta sẽ giảng giải ngắn gọn.
Về điều mà các con, đầy lòng sùng mộ, ta hỏi Ta.
Bây giờ không phải là thời để truyền bá,
Nhưng cho mỗi người để tự hành trì đúng đắn.
Bởi vì lời chỉ dạy này sẽ được cất giấu
Như một kho tàng Terma cho lợi lạc của tương lai,
Hãy phát thệ giữ gìn bí mật!
Dạy họ gắn bó với sự yêu cầu phải kín đáo này.
Ngài trước tiên nói với nhà vua:
Thưa Bệ hạ! Hãy nghe đây, dùng tư thế tréo chân.
Giữ thân thể thẳng đứng trên chỗ ngồi và tham thiền!
Giữ sự chú tâm tự do với niệm tưởng
Và không bị giam nhốt bởi các tạo tác của tâm thức. Vì trung
tâm của ngài siêu vượt mọi loại đối tượng,
Không trụ vào bất kỳ dấu hiệu cụ thể nào.
Hãy ở yên lặng, thanh tịnh và tỉnh giác!
Khi ngài ở tư thế ấy, các dấu hiệu của tiến bộ tự nhiên xuất
hiện,
Vì sự trong sáng của tâm thức, không khởi cũng không diệt.
Và tánh Giác tự do rất ráo với mọi vọng tưởng.
Đây là trang thái giác ngộ tìm thấy trong chính ngài,
Không tìm ra ở đâu khác mà tự hiện hữu kỳ diệu biết bao!
Nghe đây! Hỡi Tsogyal, họ Kharchen sùng tín!
Vì tâm con không có bản chất thực nào để chỉ bày,
Trong một trạng thái tự nhiên, không giả tạo, hiện diện xưa
nay.
Hãy ở không phóng tưởng trong cõi giới của không-thiên-định!
Hãy an trụ như thế, giải thoát xảy ra tự nhiên.
Đây chính là trạng thái giác ngộ!
Hãy nghe đây! Palgyi Senge đứa con lỗi lạc cao cả của Ta!
Mọi hiện tượng của sanh tử và Niết bàn đều là tự tâm con,
Không xuất hiện ở ngoài tâm này,
Không có tự tánh, lìa ngoài tư tưởng ngữ ngôn và diễn tả.
Không nhận lấy thích thú hay chối bỏ khó chịu,
Không xác nhận hay phủ nhận, không thiên về đâu.
Mà an trụ tỉnh giác một cách sống động trong trạng thái bổn
nhiên vô tạo tác!
Bằng cách ở yên như thế, dấu hiệu tiến bộ là thân, khẩu, tâm
ý của con.
Cảm thấy tự do và thoải mái, vượt ngoài mọi giới hạn sướng
khổ.
Đây là phút thấu hiểu trạng thái giác ngộ!
Hãy nghe đây! Vairochana, con người xứng đáng!
Mọi thứ xuất hiện và tồn tại,
Sanh tử và Niết bàn, đều khởi từ tâm chính con.
Cái tâm không thể nắm bắt, thoát khỏi mọi trung tâm và biên
bờ.
Trong trạng thái tự nhiên của sự bình thản bao la, nội tại
và không cần phải tạo ra.
Hãy an trụ không lãng trí vào sự không cố gắng vĩ đại!
Tưởng niệm nào con nghĩ ra,
Nó sanh khởi như là khoảng không của Tánh giác.
Bậc Giác ngộ không gì khác hơn điều ấy.
Khi tỉnh giác tự thông tỏ được thực hiện trọn vẹn.
Đó là cái được gán cho danh từ "Phật!"
Hãy nghe đây! Yudra Nyingpo từ xứ Gyalmo!
Tâm con là không sanh, không có vật gì để có thể thấy.
Tự do khỏi tư tưởng, không tạo ra ý niệm, chớ chạy theo niệm
tưởng của mình!
Thế nên, chớ xác nhận hay phủ nhận, mà an trụ thảnh thơi
trong chính mình!
Trong trạng thái này, dòng niệm tưởng bị cắt đoạn.
Và trí huệ lộ bày, nối liền sanh tử với Niết bàn!
Hãy nghe đây! Namkhai Nyingpo, người khất thực từ xứ Nub!
Tâm con là sự đơn giản trơ trọi, xa lìa cái ta và một bản
ngã.
Nên hãy an trụ trong trạng thái tự xảy ra, tự biến mất,
thoát khỏi tạo tác giả tạo!
Vào lúc đó, lạc sanh ra từ bên trong,
Những dấu hiệu tiến bộ xảy ra tự nhiên; đây chính là trạng
thái giác ngộ.
Hãy nghe đây! Jnana Kumara, nghe không đãng trí lời dạy này!
Tâm con từ khởi thuỷ không được tạo bởi các nguyên nhân.
Và cuối cùng không huỷ diệt bởi các điều kiện.
Vậy hãy an trụ, không dùng sức trong trạng thái không thể
nghĩ bàn và không do tạo dựng!
Vào lúc đó, Quả được khám phá, nơi chính con mà không phải
tìm kiếm.
Lìa ngoài cái này con sẽ không tìm ra bậc Giác ngộ nào khác!
Hãy nghe đây! Gyalwa Cho-yang họ Nganlam!
Tâm sáng tỏ của giác ngộ không phải được tạo ta qua thiền
định.
Thế nên, tự do khỏi nghĩ suy, không có niệm phóng ra hoặc
tan vào,
An trụ với giác quan rộng mở, để cho ý thức lắng chìm trong
chính nó!
Trong trạng thái này, thức nghĩ suy tự nhiên tan biến.
Và trí huệ tự hiện tiền không do tìm kiếm,
Đây chính là sự khám phá trạng thái giác ngộ!
Hãy nghe đây! Dorje Dudjom họ Nanam!
Có cái tên là "Tâm sáng tỏ của Giác ngộ"
Là vốn sẵn bên trong, bổn nhiên tự hữu và không tâm điểm
cũng chẳng chu vi.
Chớ sửa chữa, chỉnh trang nó, mà trong trạng thái vốn tự ngộ
và trong sáng tự nhiên
Không thay đổi, không làm biến chất, mà an trụ giải thoát
trong tánh bổn nhiên!
ở yên như thế, tâm con thoát khỏi động niệm
Chính nó là Phật!
Hãy nghê đây! Palgyi Yeshe họ Sogpo!
Trạng thái giác ngộ của tâm là vô tạo tác,
Vô cầu và vốn tự sẵn đủ.
Tuyệt không nỗ lực để bám níu vào một chủ thể hay đối tượng.
Mà ở trong trạng thái vô vi của tánh Giác vốn có!
Bằng cách an trụ như vậy, dòng vọng động bị cắt đứt và dừng
lại;
Hãy biết rằng giây phút ấy, chính là bậc Giác ngộ!
Hãy nghe đây! Nanam Yeshe, người khất thực trẻ tuổi từ xứ
Shang!
Lìa sự chú tâm khỏi mọi tạo tác phân biệt, không xác nhận
cũng không phủ nhận,
Mà an trụ trong cái không nỗ lực không do tạo tác, không lấy
không bỏ.
Trạng thái giác ngộ là ở yên không vọng động trong đó!
Hãy nghe đây! Palgyi Wangchuk họ Kharchen!
Hãy để cho tâm con trong không thiền định, không tạo ra một
quan kiến nào,
Mà, không một khởi tạo, an trụ trong tánh Giác bổn nhiên vốn
sẵn!
ở yên trong trạng thái ấy, không vất bỏ khía cạnh sanh tử,
Sự tiêu tan tự nhiên những lời lầm của sanh tử chính là trí
huệ của Phật!
Hãy nghe đây! Denna Tsemang, con người trổi vượt!
Tâm con trống vắng mọi chủ thể, đối tượng và vô tạo tác.
Thế nên, thoát ngoài dụng công và thêm thắt, chớ tạo ra bất
cứ cái gì xuyên qua thiền định.
Mà an trụ không phóng dật trong tánh Giác bổn nhiên vốn sẵn!
Bằng sự ở yên trong trạng thái này, cái giác tự nhiên vốn là
giải thoát.
Con sẽ không tìm ra Phật nếu con bỏ qua điều này!
Hãy nghe đây! Dịch giả Kawa Paltsek họ Chinbu!
Khi lìa chủ thể và đối tượng, tâm không phải là một vật gì
có thể chỉ ra.
Cũng thế, nó không được làm ra hay phải sửa chữa.
Hãy an trụ trong trạng thái thản nhiên, không lạc lầm vào sự
trụ tướng.
An trụ không xao lãng khỏi cái nó vốn chính là trạng thái
giác ngộ!
Hãy nghe đây! Palgyi Selnge họ Shubu!
Trạng thái giác của tâm là thoát ngoài mọi yêu cầu tăng hay
giảm.
Không sanh và tự nhiên không dính dấp đến "cái ta"
chấp nhận hay chối bỏ đối tượng.
Chớ trụ vào bất cứ thứ gì, hãy rốt ráo không chướng ngại.
An trụ trong trạng thái này chính là Phật.
Hãy nghe đây! Gyalwey Lodrệ, người khất thực xứ Drey!
Tâm con không thể suy nghĩ đến, cũng không thể quan sát
được.
Nó vượt ngoài có và không, thường và đoạn,
Thế nên, hãy an trụ, thoát khỏi sự thiền định về cái người tham
thiền và đối tượng!
Khi con ở yên không xao lãng khỏi trạng thái này,
Đó là cái được gọi là Pháp thân của Phật. Hãy nghe đây!
Lokyi Chungpa, lời dạy này!
Lìa chú tâm khỏi người biết và cái được biết,
Không trụ tâm, mà buông xả tự do không ước muốn, Và an trụ
trong trạng thái giác vô tánh, vô trụ.
ở yên không động lìa khỏi nó chính là trạng thái giác ngộ.
Hãy nghe đây! Drenpa Namkha!
Tâm con, nó tri giác nhưng thoát khỏi mọi bản chất,
Biết mà không tư tưởng, thông tỏ tuy bất khả tư nghì.
Tự do khỏi các chuyển động của thức tưởng phân chia,
Hãy an trụ trong trạng thái đó, tỉnh giác và rộng mở.
An trụ trong bản tánh này chính nó là trạng thái giác ngộ!
Hãy nghe đây! Palgyi Wangchuk họ Odren!
Tâm là giác tánh không thông tỏ, cái biết trống rỗng mà sáng
chiếu.
Hãy an trụ trong trạng thái vốn sẵn có này, chớ làm thoái
hoá hay chỉnh trị nó.
An trụ không động, lìa khỏi nó thì chính nó là Phật.
Hãy nghe đây! Rinche Chok!
Tính nhất như của tỉnh giác, nó không trụ vào bất cứ cái gì,
Thì không thể bám nắm; nó không được tạo ra cũng không bị lơ
là trong thiền định.
Chớ sửa trị hay làm biến chất sự trẻ trung bản hữu của nó,
Mà an trụ trong trang thái bổn nhiên xưa nay hiện tiền!
Trong trạng thái này, chớ để tâm con dậy sóng,
Từ đó con sẽ không tìm thấy Quả nào lìa ngoài Nó!
Hãy nghe đây! Sangye Yeshe, người khất thực từ xứ Nub!
Tâm tỉnh giác là trống không mà thấu biết
Và thấu biết trong khi vẫn trống không.
Một sự bất nhị không thể quan niệm nổi của trị giác và tánh
Không thông tỏ.
Hãy an trụ trong tánh bổn nhiên, không lìa khỏi cảnh giới
ấy.
An trụ không động lìa khỏi Nó thì chính Nó là Phật!
Hãy nghe đây! Palgyi Dorje Wangchuk họ Lhalung!
Bản tánh của tâm con thì vô tướng và không thuộc tính,
Chớ tìm cách tạo ra hay cải thiện nó, mà an trụ không đổi
thay hay mất niệm.
An trụ như thế chính là Phật!
Hãy nghe đây! Kệnchok Jungney họ Landro!
Tâm con thì vô tướng thanh tịnh bổn nhiên,
Xưa nay trống không và không thêm thắt giả tạo,
Thế nên, hãy an trụ trong trạng thái giải thoát khỏi người
thiền và đối tượng thiền.
Qua nó, con đạt đến quả của Phật tánh! Hãy nghe đây! Gyalwa
Janchub họ Lasum!
Tâm con không khỏi không diệt, cũng vô tướng.
Trống không tự bản chất, tánh Giác của nó thì không chướng
ngại.
An trụ không động lìa khỏi nó thì chính là Phật!
Tất cả các con, hãy áp dụng lời dạy này vào thực nghiệm!
Các con có thể so sánh các Kinh và Mật của Phật cùng các chú
giải,
Với lời chữ nhiều hơn cả không gian,
Nhưng yếu nghĩa thì gồm trọn trong các điểm chính yếu này.
Thế nên, hãy thực hành chúng và giấu chúng như các kho tàng
hợp với lời phát thệ của mình.
Padmasambhava nói như thế, và chỉ bằng sự trao
lời dạy chân thật cốt tuỷ cho họ, mà tất cả họ đều được giải thoát và đạt đến
thành tựu.....
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét