...
Tsogyal lại hỏi: Xin
chiếu cố, thưa Đại sư! Hành giả chưa đạt đến an định có phải nỗ lực để làm sạch
các chướng ngại không? Làm thế nào để trừ sạch các chướng ngại trên con đường?
Padmasambhava trả lời: Nghe đây Tsogyal! Trừ sạch các chướng
ngại khỏi con đường có bốn điểm: Trừ sạch chướng ngại của các kinh nghiệm tạm
thời về định, làm sạch chướng ngại bệnh tật đau đớn của thân, làm sạch chướng
ngại của tư tưởng ý niệm và chư thiên, quỷ ma trong tâm và làm sạch chướng ngại
của ô nhiễm tạm thời do hoàn cảnh xấu.
Thứ
nhất, làm sạch chướng ngại của các kinh nghiệm tạm thời về định: Hôn trầm nghĩa
là không thực hiện được sự tỉnh giác sáng tỏ, không ôm trùm nó được với kinh
nghiệm của quang minh. Hôn trầm trộn lẫn với giấc ngủ, là do buồn ngủ.
Trạo
cử nghĩa là tâm thức động theo một đối tượng hay theo đuổi cái gì đó.
"Động theo" nghĩa là sự chú tâm không ở yên. Bị tán thất là để cho bị
bắt lấy vào trong sự tri giác về cái gì khác. Không an trụ là yên lặng một thời
gian ngắn nhưng không thể ở lâu dài. Thất niệm là sự chú tâm của con chuyển
động mà không được lưu ý trong khi con vẫn nghĩ rằng nó vẫn ở đó.
Trạo
cử, động lay có hai loại. "Động lay bởi cái khác" nghĩa là tâm thức
động vì hoàn cảnh nào đó. "Động lay bởi chính mình" là cảm giác vi tế
của sự suy nghĩ rằng "Yên tỉnh thật! Trong sáng thật" đi vào trong
trạng thái thiền định.
Hôn
trầm và trạo cử là các lỗi ban đầu khởi ra do thất bại trong tập trung và trợt
vào sự vô ký.
Khi cảm thấy hôn trầm, hướng sự chú tâm đến trung tâm trái
tim. Trụ tâm ở đó trong khi thiền định nhất niệm và không xao động. Nhờ thế con
sẽ không rơi vào hôn trầm hay hôn mê mà vẫn tiếp tục trên con đường.
Khi cảm thấy lay động, hướng sự chú tâm đến chỗ dưới rốn,
trụ tâm ở đó và thiên định không xao động. Qua việc này, con trở nên hoàn toàn
nhất niệm và sẽ không rơi vào các lỗi lầm động niệm hay thất niệm.
Tổng quát, nếu sự chú tâm của con được nhất niệm và gom tụ
rốt ráo, con không thể bị hôn trầm hay trạo cử.
Bây giờ, dùng cái gì có lợi cho định như là con đường chánh
định tốt đẹp của lạc, trong sáng và vô niệm; lòng từ, lòng bi hay sự từ bỏ, sự
sùng tín mạnh mẽ và trong sáng, tất cả đều có một kinh nghiệm về "vị"
đi theo, cùng với các chi tiết về thân và khẩu. Các kinh nghiệm này là khí
prana, đi qua miệng. Có sự nguy hiểm của sự làm mồi cho chấp ngã, thế nên trọng
yếu là bao trùm chúng với điểm then chốt. Với thái độ hiểu biết rằng chúng là
các kinh nghiệm tạm thời duyên khởi từ tâm nhị nguyên, hãy nhìn vào yếu tính
của từng cái. Duy trì trong sự liên tục nhìn thấy ấy mà không trụ vào sự khó
khăn cũng không tham đắm. Thế rồi, các kinh nghiệm này hiện ra như là yếu tính
của tánh Giác bất nhị. Hộ trì sự liên tục này mà không bám níu vào hay nuôi
dưỡng các kinh nghiệm tạm thời.
Nếu con cảm thấy một kinh nghiệm phấn chấn phải cắt tức thời
sự bám níu ấy. Nếu con cảm thấy như muốn khóc, vì tâm bi mạnh mẽ dâng trào
trong con, phải hiểu rằng điểm then chốt của cái thấy là nhận ra tánh Giác. Chớ
buông thả trong kinh nghiệm mùi vị của nó, mà chỉ duy trì trong sự liên tục.
Kinh nghiệm có thể làm một biến hiện ảo huyễn của một tinh
linh gyalpo. Để cho con không đắm mình trong sự nuôi dưỡng một hồn linh huyền
ảo. Ta sẽ dạy con các chỉ dạy cốt lõi về cách dùng các kinh nghiệm gây chướng
ngại như là những giúp đỡ cho định.
Bất kỳ cái gì xảy ra bệnh tật, đau đớn, nhói tim hay mệt mỏi
cùng cực, hãy hiểu nó chỉ là một kinh nghiệm nhất thời. Chớ ngã lòng hay xem nó
như là một sự không may. Hãy để cho đối tượng được cảm nhận, tâm đang cảm nhận
xảy ra tự nhiên và được giải thoát. Chớ nhìn chúng như xấu hoặc tốt, mà để
chúng tự nhiên sanh khởi và giải thoát khỏi chúng.
Bây giờ, Ta sẽ giải thích làm thế nào nâng cấp các kinh
nghiệm này, để chúng siêu vượt khỏi giúp đỡ hay làm hại. ở trong thức nền tảng
a lại da, hiện tượng của sanh tử hay Niết bàn, nằm yên hiện diện tự nhiên trong
hình thức của các hạt giống. Trong thân Kim Cương, chúng hiện tồn như là các
chủng tự kinh mạch và tâm prana. Bởi thế, khi con nhận ra khuôn mặt bổn nhiên
của trạng thái chân thật và thực hành trong khi vẫn áp dụng các điểm then chốt
của định, thì các thắt nút kinh mạch được cởi mở, tâm prana được sáng tỏ, tập
khí được tịnh hoá, và con nắm được sự bắt đầu của những phẩm tính giác ngộ. Như
thế, các kinh nghiệm của sanh tử và Niết bàn sanh khỏi ra.
Nếu các khí prana tìm ra một lối mở, chúng sẽ tuôn vào đó.
Nếu con tạo ra một ý niệm, các ma sẽ hiện ra. Nếu con bỏ mặc các kinh nghiệm
với sự thản nhiên, chúng sẽ không trở thành các phần tử của con đường.
Hãy
hiểu rằng các thứ xảy ra này là những kinh nghiệm tạm thời.
Chớ nhìn cái gì như là một lầm lỗi. Chớ nhìn cái gì như là một đức hạnh.
Tự do với hy vọng, sợ hãi và nghi ngờ, tu hành trong sự để cho kinh
nghiệm tạm thời khởi sanh tự nhiên và được tự nhiên giải thoát. Trong cách này,
mọi kinh nghiệm trở thành sự nâng cấp các sự làm mạnh thêm.
Vào những lúc thực hành ẩn cư có khi tâm được mềm dẻo, có sự tiến bộ trong tu
hành tâm linh, thiền giả hứng khởi với các bài hát êm đềm. Có khi tâm không
thuần thục được, tu hành tâm linh giảm sút, chú tâm bị tán loạn và thiền giả
cảm thấy khốn khổ sâu xa.
Một số kinh nghiệm cao và thấp, khởi sanh vào lúc tách lìa
sanh tử và Niết bàn. Thay vì cảm thấy thất vọng hay kiêu hãnh, hãy giữ mình vào
điểm then chốt là để sự vật xảy ra tự nhiên mà không dính mắc, như thế con sẽ
có thể đem chúng vào con đường.
Hãy hoàn thành sự thực hành nhập thất không mệt mỏi và không
lạc vào phóng tưởng; thế rồi thứ gì cũng sẽ là một trợ đạo.
Thứ hai, để tịnh hoá chướng ngại của bệnh tật và đau đớn của
thân, có năm điểm: căn cứ nơi đó bệnh tật trú ẩn, nguyên nhân để cho bệnh tật
xảy ra, các hoàn cảnh làm nó hoạt động các hậu quả chín muồi của nó, và cách
thức chữa lành nó.
Thứ nhất, bệnh tật tiềm ẩn trong thức nền tảng, trong cách
thức cấu tạo của các kinh mạch và bởi các thói quen tập khí. Nó xảy ra vì
nghiệp xấu tích tập qua vô minh và chấp ngã. Nó được hoạt động bởi phiền não,
tư tưởng, ý niệm danh tướng, khí prana hay thần và quỷ. Hởu quả chín muồi của
nó là 404 loại bệnh, dẫn đầu là nhiệt và hàn, đờm dãi, đau và sưng. Tóm tắt,
bệnh tật vô minh câu sanh là nhân chính và bệnh tật vô minh của thức tạo
thành ý niệm là duyên chính.
Mọi bệnh tật có năm tác nhân: Nền tảng tiềm ẩn nghiệp xấu
như là nhân, phiền não như là duyên, tư tưởng ý niệm như là xâu chuỗi liên kết,
khí prana như là cái tập hợp qui kết, thần và quỷ là tác nhân phụ trợ.
Ví dụ, nếu một bệnh hàn biểu lộ, nó được gây ra bởi tập khí
tham ngủ ngầm trong thức nền tảng, và được hoạt động bởi duyên và tham muốn
mãnh liệt. Xâu chuỗi liên kết được làm bằng tư tưởng ý niệm “Tôi bị bệnh! Tôi
yếu rồi! Tôi sẽ làm gì nếu nó tệ hơn?”. Điều này làm cho “khí đi xuống làm
sạch” bị lũng đoạn, mở ra cho sự tấn công từ loài âm của các thế lực xấu.
Tương tự, hạt giống của sân như là nhân được hoạt động qua
duyên là sân, mãnh liệt liên kết với xâu chuỗi của tư tưởng ý niệm. Điều này
làm cho khí quân bình hoả bị lũng đoạn, mở ra cho sự tấn công từ loại
dương của các thế lực xấu, tạo thành các bệnh nhiệt.
Hạt giống của si như là nhân được hoạt động bởi nhân là ngu
si nặng nề, liên kết với xâu chuỗi của tư tưởng ý niệm. Điều này làm cho “khí
an trụ quân bình” bị lũng đoạn, mở ra cho sự tấn công từ các “hồn linh của đất”
ác xấu. Nó sinh ra bệnh đờm dãi.
Hạt giống của ghen ghét như là nhân được hoạt động bởi duyên
là sự ghen tuông mạnh mẽ, liên hệ với chuỗi của tư tưởng ý niệm. Nó làm cho
“khí bổ trợ cho sự sống” bị lũng đoạn, mở ra cho sự tấn công từ loài tsen của
các thế lực xấu, sinh ra bệnh đau đớn.
Hạt giống của kiêu mạn như là nhân được hoạt động bởi duyên
là sự kiêu căng mãnh liệt, liên hệ với chuỗi tư tưởng ý niệm. Nó làm cho “khí
đầy khắp” bị lũng đoạn, mở ra cho sự tấn công của loài gyalpo của các thế lực
xấu và sanh ra bệnh sưng.
Vì nguyên nhân là vô minh, con phải nhận biết trí huệ câu
sanh để chữa các bệnh này. Vì điều kiện là phiền não, con phải đặt sự chú tâm
vào tính bình đẳng. Vì mối liên kết là tư tưởng ý niệm, con phải cắt đứt sự
trói buộc của tư tưởng. Vì tác nhân gom góp của sự kết thành là khí, con phải
chú tâm vào điểm then chốt của khí. Sự nâng đỡ đằng sau là thần và ma quỷ, con
phải từ bỏ ý niệm về ma quỷ. Bằng cách làm thế con sẽ thoát khỏi mọi loại
bệnh tật.
Để chữa lành tính chất của đau ốm có ba điểm: tốt nhất là để
cho nó được vốn tự giải thoát; tốt tiếp theo là từ bỏ những điểm quy chiếu liên
hệ đến sự trừ tà hay thiền định; cuối cùng là chữa bằng quán tưởng.
Với cái thứ nhất: chớ dùng ngay cả chỉ một liều thuốc. Chớ
tụng hát một âm nào của lễ chữa bệnh. Chớ nhìn đau ốm như là một lỗi lầm, hãy
nhìn nó như một đức hạnh. Để cho tâm con không tạo tác và tự nhiên. Hoàn toàn
buông xả trong trạng thái vô niệm tự nhiên của tính đơn giản. Làm thế, dòng ý
nghĩ danh tướng bị cắt đứt; tánh Giác tự do với tư tưởng hiện lên và đau ốm
được sạch mất. Sự đau ốm và tư tưởng được giải thoát đồng thời.
Nói thế nghĩa là trong thời các sơ khởi, chớ theo đuổi sự
đau ốm. Trong thời chính phần, chớ trau dồi theo sự đau ốm. Trong thời kết
thúc, chớ trụ vào cảm giác đau ốm. Qua đó, con sẽ cởi mở đau ốm cũ và không bị
làm hại bởi đau ốm mới.
Với cái thứ hai, trừ tà hay thiền định, có ba phần: chuyển
hoá đối thủ, cắt trực tiếp và làm quân bình.
Thứ nhất, nhìn đau ốm với lòng biết ơn, nghĩ đi nghĩ lại:
“Tuyệt vời biết bao, nhờ vào ngươi đau ốm, mà ta có thể cắt đứt con quỷ ý
niệm!”. Để cho tâm con được hân hoan; dùng các thực phẩm làm chướng ngại đau
ốm, và hành động trong cách ngược lại đối với nó.
Tiếp theo, ăn một ít chất thơm đặc còn tươi, còn ấm nhưng không hấp. Uống một
tí chất thơm lỏng nồng và ấm. Bằng cách thiền định về khí prana, căn bệnh trong
phần trên thân bị trục xuất ra ngoài, và căn bệnh trong phần dưới bị xổ thoát
ra. Tiến trình làm lành bệnh này là y khoa của sự cắt đứt.
Thứ hai, để cắt đứt trực tiếp, hãy biểu lộ một bộ mặt rạng
rỡ và dừng lại sự thở than. Về tâm thức, cắt trực tiếp các lo lắng, hy vọng và
sợ hãi khi nghĩ rằng: “Tôi đang đau ốm, hay nếu tôi chết, tôi sẽ phải làm gì?”
Với sự dửng dưng toàn diện, hãy ném xa các lo lắng này.
Thứ ba, để làm cân bằng, con phải dùng sự bất hạnh
như con đường của con ngay khi nó khởi ra. Làm sáng tỏ sự tỉnh giác của con và
tự nhớ đến thực hành tâm linh. Chớ thiền định về một quán tưởng, để đối trị với
đau ốm, chớ áp dụng bất kỳ lễ nghi chữa bệnh hay thuốc thang gì, mà hãy nhìn
vào cái người cảm thấy bệnh! Bằng cách ở trong trạng thái liên tục này, khi một
kinh nghiệm xảy ra, nó tự tan biến mất và khi sự chứng ngộ xảy ra, nó hiện lên
như là tánh Giác trống không. ít ra con sẽ không phải khốn khổ vì ý tưởng cảm
thấy đau ốm.
Cuối cùng, để chữa lành bằng cách quán tưởng, hãy vận hành
Bồ đề tâm, dùng thế ngồi kiết già và quán tưởng chính mình như là hoá thần Bổn
tôn. Tưởng tượng một chữ Hung xanh đậm trong trung tâm trái tim, cỡ bằng hạt
lúa mạch. Nếu bệnh nhiệt, tưởng tượng một chữ Hung màu trắng cỡ bằng hạt
lúa mạch, khởi từ chữ Hung trong trung tâm trái tim và xoay vòng xuyên qua phần
trên của thân. Nó hoàn toàn rút ra hết các bệnh tật, giống như một cục nam châm
hút các cây kim. Thoát lên từ đỉnh đầu con, nó tan biến vào không gian. Quán
tưởng như thế, rút khí lên phía trên.
Nếu là bệnh hàn, tưởng tượng một chữ Hung màu đỏ cỡ bằng hạt
lúa mạch, xuất hiện từ chũ Hung trong trung tâm trái tim và xoay vòng xuyên qua
phần dưới thân. Thoát ra qua cửa phía dưới, tưởng tượng rằng nó biến mất vào
trung tâm trái đất.
Nếu con đau trong tay và chân, như nóng hay sưng, quán tưởng
một chữ Hung màu đen ở chỗ đau. Tưởng tượng rằng nó gom cái đau lại và rời khỏi
qua chỗ nóng hay ra ngoài qua đầu ngón tay.
Đối với bệnh không chẩn đoán được, tưởng tượng rằng một chữ
Hung xanh đậm xuất hiện từ chữ Hung trong trung tâm trái tim.Nó gom lại tất cả
bệnh tật khắp thân và tan biến vào không gian sau khi qua lỗ mũi.
Tổng quát, khi ở trong tính bình thản, tâm con hoàn toàn trở
thành tinh chất của vô niệm. Con phải buông bỏ mọi lưu tâm tự do khỏi nghi ngờ
và do dự về cái được tẩy trừ hay quán tưởng. Sự quán tưởng và tâm con phải là
một. Điều quan trọng là nương dựa và tập trung vào ba điểm này.
Bây giờ, làm sao để tống xuất chướng ngại của một tâm trí
chứa chấp những tư tưởng về thần và quỷ. Khi con đã có những kinh nghiệm thường
xuyên, nhờ vào sự liên kết giữa cấu trúc các kinh mạch và sự chuyển hướng của
dòng tư tưởng(1). Con sẽ bị tấn công bởi các trò biến hiện huyễn hoặc của các
năng lực, gọi là ma quỷ và cảm thấy nghi ngờ. Khi tư tưởng sợ hãi và khủng
khiếp khởi lên, nhận chân chúng một cách nhanh chóng và đưa chúng vào con
đường. Nếu con để chúng chạy rong hay rơi vào quyền lực của chúng, chúng sẽ trở
thành một cản trở cho sự tu hành của con.[1]
Hơn nữa, trừ phi con nắm được mọi thứ chướng ngại cao hay
thấp để dùng như con đường của mình, còn không nó sẽ trở lại với sức mạnh hơn,
và trở thành một cản trở cho tu hành. Thật cần yếu dùng các chướng ngại như con
đường.
Căn bản, để vượt qua sự nhiễm ô nguy hiểm của ý nghĩ mình,
phải đem các chướng ngại vào con đường. Các kinh nghiệm về năng lực xấu
hay trò biến hiện huyễn hoá đều được kinh nghiệm trong tâm lầm lạc của con.
Thật sự không có “thần” hay “quỷ” nào ở ngoài con. Ngay khi con kinh nghiệm các
năng lực xấu và các trò biến hoá, hãy áp dụng điểm trọng yếu là hiểu rằng chúng
không có thực thể nào cả, vì chúng không có sanh, trụ và diệt. Khi nào một sự
tấn công ảo hoá xảy ra, hãy ngồi thiền, giữ thẳng cái nhìn và nhìn vào bản chất
của nó. Rồi tư tưởng hiện lên như cái biết trống không. Ngay lúc ý nghĩ con
hướng về trong tánh Giác trống không, con có sự can đảm, tự tin nó cắt đứt hoàn
toàn sợ hãi và khủng khiếp.
Ngay nếu lũ ma bao quanh con như một đạo quân, chúng sẽ
không thể làm động một sợi tóc trên thân con; cũng chẳng thể tạo ra cản trở
nào. Giữ sự tự tại nghĩ rằng: “Tôi không thể bị hại bởi bất kỳ cản ngại nào!”
Nhút nhát nghĩ rằng: “Không biết tôi có gặp trở ngại nào nữa không?”. Chỉ tạo
ra sự chào mời cho ma quỷ.
Mọi kinh nghiệm về quỷ thần, đều chính là ý nghĩ danh tướng
của con kết thành hình thể. Chúng không có ngay cả một vi trần hiện hữu ngoài
chính tâm con. Hãy cắt đứt dòng tư tưởng ý niệm! Hãy đem cho các uẩn của con như
quà biếu cho một bữa tiệc! Cho Pháp thân con như là thức ăn! Hãy vất bỏ chấp
ngã! áp dụng điểm trọng yếu và thực hành.
Bây giờ, làm sao để trừ sạch những chướng ngại của ô nhiễm
tức thời (drib): Con trở thành ô nhiễm do sự gặp gỡ hay chia phần với các bạn
bè họ đã xâm phạm lời thệ nguyện samaya của họ, làm hư giới luật hay mắc vào
những việc làm xấu; do tiếp xúc với người bệnh cùi, người mà vợ hoặc chồng vừa
mới chết, hay người có trí óc quỷ quái; hay do ở trong một ngôi nhà có ác
nghiệp, có ma quỷ, có kẻ thù, hay sự xấu xa về đạo đức. Con trở nên bị bôi bẩn
khi ăn thức ăn có được qua sự thù địch, hay từ đạo đức xấu, từ ác nghiệp. Thân
thể con bèn khó chịu, định bị yếu đi, các Hộ pháp không bằng lòng.
Dờu hiệu các samaya và giới luật của con bị tổn hại là nằm
mơ thấy bị rơi xuống, hay đi xuống. Khi dơ bẩn bởi bạn bè, con mơ thấy các
chúng sanh bị bôi dơ bằng thứ ô uế của người khác. Khi dơ bẩn bởi chỗ ở, con mơ
thấy đi vào một căn phòng dơ dáy. Khi dơ bẩn bởi thức ăn, con mơ thấy đang ăn
thứ dơ bẩn.
Cách tốt nhất để sửa chữa điều này là bằng sự trao
truyền pháp lực và Sadhana; tốt tiếp theo là bằng Thần chú Đà la ni; và tốt thứ
ba bằng các lễ tẩy tịnh. Bằng mọi cách hãy cố gắng tốt nhất để trừ sạch ô
nhiễm.
Tsogyal lại hỏi: Xin chiếu cố, thưa Đại sư! Làm thế
nào một thiền giả có được sự nâng cấp, sự tăng tiến qua việc trừ khử các chướng
ngại ra khỏi con đường?
Đạo Sư trả lời: Tsogyal! Có sự nâng cấp, tăng thêm trên con
đường có ba điểm: Bỏ đi các lỗi lầm ngăn chặn sự nâng cấp, đặt nền móng cho sự
nâng cấo và nỗ lực trong các phương pháp cho sự nâng cấp xảy ra.
Thứ nhất, gốc rễ của các lỗi không gì khác hơn là chấp ngã,
cái thái độ của sự an trụ sai lầm, thế nên hãy cắt đứt các ràng buộc của chấp
ngã. Ném xa sự trụ tâm vào kẻ thù hay bè bạn! Hãy bỏ những mối quan tâm trần
thế! Từ bỏ các theo đuổi vật chất! Dấn thân vào không gì khác hơn Pháp từ cốt
lõi của lòng mình!
Đúng như một hạt giống không thể tăng trưởng trên đá, sẽ
không có sự tăng tiến nào nếu không bỏ đi lỗi lầm chấp ngã. Bởi thế, con hãy từ
bỏ gốc rễ của mọi tội lỗi là chấp ngã.
Thứ hai, để đặt nền móng cho sự nâng cấp, kiên trì trong bất
cứ con đường gì con đã đi vào và cố gắng hiển lộ vài phẩm chất. Dấn thân vào
nhiều thực hành mà không tu tập một thứ sẽ không mang đến kết quả. Hãy hiểu
điểm then chốt đi vào và ra khỏi con đường: Đi vào trong bất cứ con đường nào
mà con có kinh nghiệm và ra khỏi các thứ thực hành khác! Chú tâm hoàn toàn cho
đến khi con ổn định trong thực hành đó. Con không thể nắm được một con đường
cao hơn, nếu không dựa vào một con đường ở dưới. Tu tập như thế, giống như
trồng những hạt giống tốt trên đất màu mỡ, con sẽ có được kinh nghiệm, thấy ra
yếu tính của con và tiến bộ. Tóm tắt, sự tu hành mãnh liệt là căn cứ cho các
phẩm chất xuất hiện.
Thứ
ba, về sanh ra sự nâng cáp, có hai điểm: nâng cấp con đường đặc biệt mà con
đang đi, nâng cấp kinh nghiệm và chứng ngộ mới khởi.
Nếu con không có tiến bộ nào khi thực hành một lời dạy về phương tiện (upaya),
thì những phương tiện đã trở nên một chiều, do vì bám trước vào tướng và các
thuộc tính. Hãy làm nảy sinh sự nâng cấp bởi trí huệ (prajna), khi hiểu rằng
mọi hiện tượng đều vô tự tánh.
Nếu con không tiến bộ khi thực hành một lời dạy về trí huệ
(prajna),t hì trí huệ đã trở thành một khuyết điểm, bởi vì sự bám trước một
chiều vào tánh Không. Hãy chú tâm vào điểm then chốt “nhân quả” và làm nảy sinh
sự nâng cấp qua các lời dạy về phương tiện thiện xảo (Upaya).
Cùng cách ấy, không tiến bộ khi thực hành Shamatha (chỉ) là
vì lỗi không hiểu trạng thái bổn nhiên. Làm sanh sự nâng cấp nhờ vào Vipashyana
(quán), sự nhận ra trạng thái chân thật.
Không tiến bộ khi thực hiện quán là do khuyết điểm thời gian
an định quá ngắn ngủi. Hãy làm nảy sinh sự nâng cấp nhờ chánh niệm vững chắc
vào chỉ. Cũng thế, hãy nguyên lý đồng đẳng này (chỉ và quán) với mọi loại trạng
thái của thiền đình và sau thiền định.
Đây là điểm then chốt để làm nảy sinh sự nâng cấp, tăng tiến
trong mọi loại thực hành hằng ngày.
Thứ hai, để nâng cấp cái mới sanh kinh nghiệm và chứng ngộ,
có sự nâng cấp qua phiền não và sự nâng cấp qua tư tưởng niệm.
Đối với cái thứ nhất, không có ai không có phiền não, nhưng
nếu con lạc vào sự bám chấp sâu nặng, các xúc động sẽ không trở thành phần tử
của con đường. Đối với điều này, có ba điểm: các khuyết điểm không làm được như
vậy và cách làm điều đó.
Thấy người nào hay phi nhân đẹp, tâm con bị choáng váng vì
tham muốn. Các khuyết điểm là vì tham muốn tăng lên, con tạo ra nghiệp xấu, bị
bịnh hàn, bị tấn công bởi các lực lượng âm xấu xa (dện) và trong tưưong lai bị
thai nghén trong tử cung. Như thế chắc chắn con sẽ bị thuộc vào vòng nghiệp
quả.
Các phẩm chất tốt đẹp là con có thể thu hút, hấp dẫn người
và phi nhân như con muốn, làm nảy sinh định của tánh. Không lạc phúc, thoát
khỏi bịnh hàn, được các loài bảo vệ giới nữ đi theo và cuối cùng tái sinh ở cõi
Cực lạc.
Khi con cảm thấy ham muốn mạnh mẽ, nó có thể được dùng như
con đường tại ngay chỗ ngồi này, trong cùng thời công phu này. Chó ném hòn đá
vào mũi con heo!(1). Hãy chùi sạch ngọn nến khi nó còn nóng! Hãy giết kẻ
thù của con khi con bắt được hắn!
Tulkku
Urgyen Rinpoche giải thích rằng mũi con heo là điểm nhạy cảm nhất trên thân thể
nó; đụng vào đó làm cho nó chạy mất. Các phản ứng của hoặc là tội lỗi và đè nén
hay của sự dấn mình mù quáng trong một xúc cảm; cả hai đều là “đánh vào mũi con
heo”, bởi thế mất đi cơ hội để nhận ra bản tánh của xúc cảm.
Trước tiên, hãy để cho ham muốn tăng đến mức đầy đủ của nó. Rồi, trước khi gây
ra bất cứ nghiệp gì, hãy đem nó vào con đường. Vì chính tâm con làm vững chắc
sự ám ảnh của ham muốn. Khi nhận dạng của tâm thái này hiện lên như tánh Giác
bị méo mó, sự trùng hợp tốt đẹp được hình thành trọn vẹn. Nếu không có cái nền
tảng tánh Giác bổn nguyên này, ham muốn không thể trở thành con đường; cũng như
một sự phản chiếu không thể thấy được trừ phi tấm gương hết bẩn. Sức mạnh của
phiền não phát triển hoàn toàn. Khi cảm xúc được kinh nghiệm trong trạng thái
của tánh Giác bổn nguyên, không nghiệp nào được tạo ra. Nó được đưa vào con
đường mà không cắt đứt nó với bất kỳ tư tưởng nào khác, giống như hòn đã của
triết gia.
Cách hiện thực để đem nó vào con đường là nhìn vào
nhân dạng của ham muốn, và để nó trong trạng thái bổn nhiên. Thế rồi nhân dạng
của nó hiện lên sống động như là tánh Giác vô niệm, trong đó Lạc và Không thì
bất nhị.
Thêm nữa, khi con tu hành như thế, hãy đem ham muốn vào con
đường nhờ vào từ – bi và Bồ đề tâm. Trước tiên, hãy vận hành tâm thái
giác ngộ; tiếp theo, thoát khỏi mọi tạo tác của tâm thức; và cuối cùng, hãy
niêm phong bởi sự hồi hướng. Bằng cách vận hành Bồ đề tâm, xúc động của con trở
thành con đường của sự giác ngộ. Bằng cách ở yên trong một trạng thái không tạo
tác, chứng ngộ sanh ra. Và bằng cách niêm phong với hồi hương đức hạnh được
hoàn mãn.
Hãy tu hành không phóng tâm theo cách này với mỗi trạng thái
tư tưởng, từ lúc nó nảy sanh cho đến khi nó được dem vào con đường. Chỗ bị ngắt
bởi các tư tưởng khác, từ khi vận hành Bồ đề tâm đến lúc niêm phong với sự hồi
hướng: nếu con bị ngắt quãng, nó không trở thành con đường.
Cũng cùng điểm then chốt như thế, trong trường hợp các xúc
động khác như giận dữ, mờ tối, kiêu căng, ghen ghét. Hãy đem chúng không xao
lãng vào con đường; thế rồi để cho nhân dạng hiện lên như tánh Giác bổn nguyên.
Hãy để cho chúng phát triển đầy đủ, sức mạnh mà không tạo một nghiệp mới nào.
Thứ hai, nâng cấp tăng tiến qua suy nghĩ ý niệm, có hai
phần, tư tưởng tốt và tư tưởng xấu. Loại thứ nhất là khi con có “một kinh
nghiệm tốt” tạm thời về các trạng thái phấn khởi của tâm, nhận một sự báo trước
của một hoá thần, hay có những dấu hiệu nổi bật tốt lành. Rồi con xem cái sự
xảy ra đó như là điều gì tuyệt hảo, ngắm nghía các phẩm chất tốt của chúng,
thưởng thức hương vị của chúng. Nếu con cố gắng phát triển kinh nghiệm, nó biến
mất. Nếu con thản nhiên với nó, thì không có sự nâng cấp.
Để làm sanh ra sự nâng cấp, chớ buông thả trong một trạng
thái tư tưởng “tốt”, chớ bám níu nó như là một phẩm chất tốt và chớ nếm hương
vị của nó. Điều con nhìn như là “tốt” chỉ đến từ tâm con. Dùng phương pháp đã
giải thích ở trên đem nó vào con đường mà không bị xao lãng bởi các tư tưởng
khác, cho đến khi nhân dạng của chúng hiện lên như tánh Giác bổn nguyên.
Loại kia là các kinh nghiệm không mong muốn, sự khuấy động
của trí óc, hay một sự tấn công ảo hoá của ma quỷ. Thông thường con nhìn các
trường này như thứ gì tiêu cực, xem chúng như là lỗi lầm và thưởng thức hương
vị của chúng: làm thế, chúng trở thành chướng ngại. Chớ chối bỏ tư tưởng xấu,
chớ nhìn chúng như là tai hại, chớ buông thả trong chúng. “Xờu” chính là sự
sáng tạo ảo hoá của tâm con. Hãy đem nó vào con đường như đã tả ở trên, cho đến
khi nhân dạng của chúng hiện lên như tánh Giác bổn nguyên.
Các chủ đề đến đây là những thứ cần thiết trọn vẹn cho con
đường của một thiên giả.
Bây giờ, về quả của sự thành tựu con đường, có bốn điểm. Thứ
nhất là cách làm việc cho lợi lạc của chúng sanh; thứ hai là cách tâm trí huệ
tồn tại; thứ ba là cách nhìn những người cần được hoá độ qua tâm Đại bi; và thứ
tư là sự bác bỏ các tà kiến về người khác.
Thứ nhất, khi các nhiễm ô che tối con đường đã được làm
sạch, con chứng ngộ trạng thái bổn nguyên vốn sẵn. Điều này có bốn phương diện:
ý nghĩa, dấu hiệu, nhân dạng và cách biểu lộ. Năm thân là nền tảng. Năm đường
lối của lời nói truyền thống sự hiểu biết. Năm cách của tâm là không ý niệm.
Năm phẩm chất làm tròn đủ các nhu cầu. Và năm hoạt động chúng vận hành cho lợi
lạc của người khác.
Thứ nhất là năm thân. Pháp thân (Dharmakaya) thì vô sanh,
thanh tịnh vô ngại, và hoạt động như là nền tảng của bốn thân trí tuệ.
Báo thân (Sambhogakaya) là tánh Giác bổn nguyên của các phẩm chất viên mãn
(sam) nó hưởng thụ (bhoga) sự đa thù của hiện tượng mà không trụ. Nó hoạt động
như là nền tảng của các xuất hiện Hoá thân. Hoá thân (Nirmarakaya) hoá hiện
(Nirmana) một cách huyễn ảo phù hợp với tính khí của những người cần hoá độ, mà
không rời lìa Pháp thân. Nó hoạt động như là nền tảng cho các phẩm chất trí
huệ, chúng được phô diễn trong bất cứ cách nào cần thiết, cho những người cần
được hoá độ. Vajrakaya (Kim cương thân) là tánh Giác bổn nguyên, tánh Không và
tánh Giác không thể phân chia nó biểu lộ tánh Như. Abhisambodhikaya là tính
không sợ, vô uý, không phân chia, thường hằng trong yếu tính. Nó tự nhiên thấu
hiểu mọi hiện tượng như là tánh Giác bổn nguyên, vô sở trụ, thông tỏ tự nhiên.
Thứ hai là năm cách của lời. Lời tối hậu của Pháp thân, cái
được biểu lộ là tánh Giác thanh tịnh rốt ráo, nó làm nền tảng cho mọi tự tưởng
và diễn tả. Lời tượng trưng có định hướng của Báo thân là tánh Giác bổn nguyên,
truyền thông ý nghĩa bằng cái nhìn thấy hình tướng. Lời nói của Hoá thân la
tánh Giác bổn nguyên, nó truyền thông với sáu loại chúng sanh, nhờ sáu mươi
phương diện của tiếng nói du dương. Nó đem đến sự hiểu biết cho ý nghĩa mỗi chữ
trong kinh nghiệm của người được giáo hoá. Lời của trí huệ Kim cương là tánh
Giác bổn nguyên, truyền thông sự hiểu biết về tánh Không bất nhị có thể nghe
được. Lời Abhisambodhi của sự giác tự nhiên thông tỏ là tánh Giác bổn
nguyên, nó thấu hiểu mọi âm thanh là tánh Giác và nó soi sáng ý nghĩa qua các
ban phước chưa đủ trí huệ có năm khía cạnh của tâm.
Thứ ba là năm đường lối của tâm giác ngộ. Tâm của đại
học là tánh Giác vô niệm của tự tánh Không. Tâm của vô niệm là tánh Giác bổn
nguyên, nó nhận biết mà không danh tướng hoá hiện tượng. Tâm của tính bình đẳng
là tánh Giác bổn nguyên, tánh bất nhị của mọi hiện tượng. Tâm Kim cương là tánh
Giác bổn nguyên, trong nó mọi hiện tượng là sự bất nhị của hình tướng và tánh
Không. Tâm giải thoát chúng sanh, hoạt động vì sự lợi lạc cho các chúng sanh
nhờ bốn hoạt động không vướng mắc.
Thứ tư, năm phẩm chất là cõi, cung điện, tia sáng, ngai và
đồ trang sức. Cõi của Pháp thân là Hư không vốn thanh tịnh của pháp giới. Cõi
của Báo thân là “Luân xa ánh sáng” của quang minh bổn nhiên. Cõi của Hoá thân
là thế giới Ta bà nghìn tỷ.
Cung điện đối với Pháp thân là pháp giới của Akanishtha; đối
với Báo thân là tánh Giác bổn nguyên của kinh nghiệm cá nhân; và đối với Hoá
thân nó là Mạn đà la nảy sanh từ kinh nghiệm cá nhân.
Các tia sáng đối với Pháp thân là các tia hào quang của năm
trí huệ. Đối với Báo thân, chúng là sự chói sáng tự nhiên của trí huệ, nó soi
sáng với ánh sáng năm sắc. Được dạy rằng Hoá thân có 60 tỷ tia sáng chiếu từ
mỗi phần của thân thể.
Ngai cho Pháp thân là ngai của cái thấy nhất như; cho Báo
thân là trí huệ nhất như; và cho Hoá thân là Đại bi nhất như.
Về đồ trang sức, Pháp thân có đồ trang sức của sự thanh tịnh
vô sanh. Báo thân có đồ trang sức của sự thông tỏ tự nhiên bất đoạn, các
tướng chánh và sư phụ siêu phàm, mười trang sức tượng trưng: Vương miện,
khuyên tai, chuỗi hạt dài và ngắn, vòng đeo tay, hai vòng cổ tay và hai vòng cổ
chân, một chuỗi đeo cổ dài. Đồ trang sức của Hoá thân là 32 tướng chánh và 80
tướng phụ thông thường. Các phẩm chất của thân Kim cương và thân Abhisambobhi
không được đề cập đến.
Năm hoạt động là: làm yên nghiệp và phiền não; làm tăng thêm
tuổi thọ, công đức và trí huệ; thu hút tâm, sự tỉnh giác mọi hiện tượng của
sanh tử và Niết bàn; trừ khử bất cứ thứ gì ách tắc; và hành động trực tiếp nó
thực hiện trạng thái bổn nhiên.
Bây giờ, về cách hành động cho sự lợi lạc của chúng sanh, có
ba phương diện: hành động với một chỗ nương dựa, hành động không có một chỗ
nương dựa, và hành động bằng bản tánh.
Hành động với một chỗ nương dựa nghĩa là hoạt động cho lợi
lạc của chúng sanh, trong sạch qua Báo thân và cho các chúng sanh không trong
sạch qua Hoá thân, với căn cứ là tánh Giác Vô nhị của Pháp thân. Đây là cách
xác định rằng trí huệ là có mặt.
Hành động không có một chỗ nương dựa nghĩa là hoạt động cho
lợi lạc của chúng sanh, bằng cách xuất hiện như hai sắc thân ở trong tri
giác của người được hoá độ. Dù cho trạng thái giác ngộ của Phật tánh, không có
cái trí huệ bị giới hạn trong một cá thể vật chất. Đây là đường lối xác định
rằng trí huệ là vắng mặt.
Hoạt động cho lợi lạc của chúng sanh bằng bản tánh, nghĩa là
hoạt động qua sự biểu lộ tự tánh của mọi sự nó là “không có gì cả” và tuy nhiên
hiển lộ trong bất kỳ cách gì có thể. Đây là đường lối của tính bất nhị (của hai
lối trên).
Giải thích thêm “người hành động” là năm thân hiện diện tự
nhiên gọi là Vajradhara. Năm thân này chính là sự phân chia của các phẩm chất;
chúng không phải là năm thực thể cụ thể, riêng biệt. Thân Kim cương và thân
Abhisambodhi là tên để gọi các phương diện của ba thân, trong khi Pháp thân,
Báo thân và Hoá thân là các thân hiện thực.
Pháp thân là phương diện của sự chứng ngộ cho sự lợi lạc của
chính mình, không hành động cho lợi lạc của chúng sanh. Nhưng hai sắc thân hành
động cho phúc lợi của người khác. Điều này nghĩa là Báo thân hành động cho các
chúng sanh trong sạch như là các Bồ Tát của Thập địa, trong khi Hoá thân hành
động cho lợi lạc của sáu loại chúng sanh bất tịnh.
Hoạt động vị tha trong những đường lối bất khả tư nghì, là
những căn cứ mười hai công hạnh của Pháp thân. Sáu thần thông của tâm và Bốn vô
lượng tâm. Các đường lối hoạt động, khi chia ra là mười hai phương diện
của lời tối thượng; khi cô đọng lại, chúng là ba tạng kinh điển; khi xem là
phương thuốc, chúng là sự tịnh hoá chữa lành; khi xem theo nhân và quả, chúng
là các thừa của Mật và Giáo.
Chư Phật thường trụ như là trạng thái căn bản của tâm trí
huệ, nó là sự không thể phân chia của hai đế (Chân đế và tục đế). Không rơi vào
bất cứ thiên lệch nào, tự do khỏi đồng và dị. Quả tối hậu là chứng ngộ và
an trụ trong tánh Giác bổn nguyên, vốn không chia biệt với tâm trí huệ toàn
giác của các bậc giác ngộ. Không trụ trong bất cứ biên cực nào, tự do khỏi ít
và nhiều, siêu việt đồng và dị.
Trạng thái căn bản của tâm trí huệ này vượt ngoài đơn giản,
vì hai mươi lăm thuộc tính của quả, biểu lộ từ các phương diện các phẩm chất
của Phổ Hiền. Nó vượt ngoài đa thù, vì sự biểu lộ hai mươi lăm thuộc tính này
của quả, đều được chứa đựng trong tánh Giác tự hữu đơn nhất của tâm Phổ Hiền.
Hơn nữa tâm trí huệ thì vượt ngoài đơn nhất, bởi vì nó xuất hiện như là Chư
Phật của ba thân, trong tri giác của những người được hoá độ. Nó cũng vượt
ngoài đa thù, vì chúng là các thực thể thật sự có chất, nhưng là một trong tánh
Không và không có bản ngã.
Nếu tâm trí huệ là thực sự đơn nhất, thì sự chuyển hoá của
các trạng thái tư tưởng sẽ là giả. Nếu nó thực sự là các thực thể khác biệt,
thì một vị Phật sẽ không biểu lộ trong các hoá hiện vô số. Bởi thế, nó thường
trụ thoát khỏi đồng nhất hay dị biệt.
Đường lối nhìn những người cần hoá độ và bác bỏ tà kiến như
sau. Cái được thấy là các tính khí của những chúng sanh cần hoá độ. Cái nhìn
thấy là Đại bi của Phật Pháp. Cách nhìn có ba phần: Trí huệ thấu suốt bản tánh
của sự vật, thấy rằng mọi hiện tượng không sanh khởi. Trí huệ thấu suốt mọi
hiện hữu, thấy rằng mọi hiện tượng là không diệt mất. Trí huệ thấu suốt tánh
bất nhị, thấy rằng mọi hiện tượng là bất nhị.
Bây giờ, ta sẽ bác bỏ các tà kiến về người khác(1). Hãy xem
xét điều này: các đối tượng được thấy, các hình tướng tính khí của chúng sanh,
có hiện hữu trong kinh nghiệm của một vị Phật không? Nếu chúng hiện
hữu, các kinh nghiệm lầm lạc ấy phải là các thực thể có thật, bởi vì chúng xuất
hiện trong một kinh nghiệm chân thực. Bởi thế, chúng phải rốt ráo là giả. Nếu
chúng không hiện hữu, thế là tri giác của một vị Phật phải sai lầm, bởi
vì thấy một cái gì không có. Điều này giống như nhãn thức nhận ra hai mặt trăng,
bởi vì nhìn các thực thể hiện hữu một cách chấp chặt(2). Vì điều này nhất thiết
không xảy ra, nên hai chân lý là rốt ráo không thể phân chia.
Emaho!
Đây là pháp bí mật, không gì sánh của Tối Thượng thừa.
Tinh yếu chân thật của liễu nghĩa,
Con đường ngắn để đạt Phật tánh trong một đời.
Sau khi tiếp xúc với nó, những người theo lời chỉ dạy của Ta
[1]
Là những người phước đức, những đứa con ruột của Uddiyana!
Kho tàng Ngọc quý để trừ bỏ chướng ngại
Là một ngọn đèn chính yếu và sáng tỏ, như ánh sáng
Của mặt trời và mặt trăng, soi sáng giai đoạn thành tựu.
Trong thời tương lai một Thiền giả tiền định ẩn danh
Sẽ gặp các giáo huấn cốt lõi này.
Thế nên,, Tsogyal! Hãy cất giấu chúng như một kho tàng
Terma!
Mười hai Thiên nữ Tenma! Hãy giữ gìn giáo lý này!
Sáu trăm ba mươi năm kể từ bây giờ,
Một con người tiền định của loài hung dữ họ cai quản các
Terma,
Sẽ xuất hiện từ phương Đông; hãy giao phó nó cho người ấy!
Khi con người tiền định ấy tiếp xúc với các lời dạy này,
Người ấy không phát lộ chúng một cách khinh xuất,
Mà sẽ chỉ dạy sau khi khảo sát người xứng đáng.
Như thế Ngài đã nói.
Bà Tsogyal! Cất giấu lời dạy này trong một kho tàng màu
trắng bằng ốc tù và, trên sườn núi phía Bắc, nó giống như một đống rắn độc.
Bản văn này được khám phá ra bởi Rigbzin Gokyi Demtru Chen,
vị Vidydhara với bộ lông kên kên, từ trong kho tàng màu trắng bằng ốc tù và,
trên sườn núi phía Bắc, nó giống như một đống rắn độc.
Samaya, ấn, ấn, ấn.
....